THÀNH Ô DIÊN TRONG LỊCH SỬ
I
. Những ghi chép và vấn đề lịch sử:
Thành
Ô Diên là một tòa thành cổ được ghi chép sớm nhất trong cuốn Việt điện U linh
thuộc thế kỷ XIV(1) trong mục Triệu Việt Vương và Lý Nam đế. “ Nam đế đã thôn tính xong
Triệu Việt Vương bèn thiên đô đến Lộc Hoa và Vũ Ninh; phong anh là Xương Ngập
làm Thái bình hầu giữ thành Long Biên; phong đại tướng Lý Tấn Đỉnh làm An ninh
hầu giữ thành Ô Diên. Nam
đế làm vua 30 năm thì chết”. Đây là tài liệu sớm nhất về tòa thành này. Các bộ
sử về sau khi viết về triều đại độc lập đầu tiên của dân tộc ( Lý Bí và nhà
nước Vạn Xuân) đã đề cập chi tiết hơn về triều đại này và thành Ô Diên. Đại
Việt sử ký toàn thư bộ sử chính thống của nhà nước độc lập viết vào thế kỷ XV
chép: năm 571 sau khi đánh đuổi Triệu Việt Vương “ Vua họ Lý, tên húy là Phật
Tử, là tướng người họ của Tiền ( Lý) Nam đế, đuổi Triệu Việt Vương, nối vị hiệu
của Nam đế, đóng đô ở thành Ô Diên sau dời đến Phong Châu” (2)
Năm 602 “ Vua sai con của anh là Lý Đại
Quyền giữ thành Long Biên, Biệt súy là Lý Phổ Đỉnh giữ thành Ô Diên( bấy giờ
vua đóng đô ở Phong Châu)(3)
Bộ sử chính thống của triều đại phong
kiến cuối cùng – nhà Nguyễn viết vào thế kỷ XIX cũng ghi: “ Phật Tử kéo quân về
phía đông, đánh nhau với Triệu Việt Vương ở Thái Bình...Lý Phật Tử mới dời sang
ở thành Ô Diên...”(4).
Từ nguồn tư liệu trên, sau này những nhà
biên soạn lịch sử khi đề cập đến nhà Tiền Lý đều có ghi chép về sự kiện này và
đề cập đến thành Ô Diên.
“ Phật Tử cất binh diệt được họ Triệu vẫn
xưng là Nam
đế, đóng đô ở Ô Diên, rồi rời ra Phong Châu. Ở ngôi được 47 năm ”(5)
“ Lý Phật Tử lấy được thành Long Biên
rồi, xưng đế hiệu, đóng đô ở Phong Châu, sai Lý Đại Quyền giữ Long Biên Lý Phổ
Đỉnh giữ Ô Diên” (6)
“ Năm 555 Lý Phật Tử tranh ngôi, Triệu
Quang Phục chia nước làm hai lấy bãi Quần Thần ( nay là địa phận các xã Thượng
Cát và Hạ Cát huyện Hoài Đức) làm giới hạn, để cho Lý Phật tử đóng đô ở thành Ô
Diên( nay là làng Đại Mỗ huyện Hoài Đức) (7)
“Họ Lý đóng ở Ô Diên. Họ Triệu đóng ở
Long Biên. Năm 571 Lý Phật Tử bất ngờ đánh úp Triệu Việt Vương chiếm toàn bộ
quyền hành và đất đai...Năm 603 nhà Tùy tiến đánh Giao châu Lý Phật Tử cũng bố
trí lực lượng để chống lại quân xâm lược Tùy. Họ Lý sai con người anh là Lý Đại
Quyền đem quân trấn giữ thành Long Biên, sai một viên tướng khác là Lý Phổ Đỉnh
đem quân giữ thành Ô Diên( Từ Liêm- Đan Phượng – Hà Nội) còn tự mình thì trấn
giữ ở khoảng thành Cổ Loa- Hà Nội”(8)
Lược qua những dòng lịch sử Việt Nam cho biết trong hệ thống thành cổ Việt Nam 10
thế kỷ đầu công nguyên có ghi chép về thành Ô Diên. Thành Ô Diên có vai trò là
nơi đóng đô của Lý Phật Tử sau cuộc kháng chiến thắng lợi - cân bằng vị thế với thành Long Biên – nơi đóng đô của nhà nước
Vạn Xuân và là đô của Triệu Việt Vương. Sau khi thống nhất lãnh thổ và quyền
lực Lý Phật tử đã định đô ở đây với vị thế là Kinh đô của Hậu Lý Nam đế. Khi
kinh đô của Lý Phật Tử chuyển đô về Phong Châu thì Lý Phổ Đỉnh được phân đóng
giữ thành Ô Diên cũng cân bằng với Lý Đại Quyền đóng quân ở thành Long Biên.Thành
Ô Diên trở thành kinh đô của Lý Phật Tử lên nắm quyền từ năm 555 đến năm 571
khi Lý Phật Tử đánh bại Triệu Quang Phục(16 năm).Theo Việt điện u linh thì sau
khi đánh bại Triệu Quang Phục thì Lý Phật Tử thiên đô đến Lộc Hoa và Vũ Ninh; thành Ô Diên giao cho Lý
Phổ Đỉnh trần giữ đến năm 603- Đây là tòa thành với vai trò quân sự (32
năm).Như vậy, thành Ô Diên được biết đến, sử dụng trong 58 năm, Lý Phật Tử ở
ngôi được 47 năm. Tòa thành này có hai vai trò: kinh đô là trung tâm chính trị
quyền lực, hành chính và kinh tế văn hóa của một vương triều và thành quân sự
vị trí trọng yếu của vùng đất, trấn giữ phía tây khi cuộc kháng chiến chống nhà
Tùy xâm lược ( Lý Phật tử đóng quân ở thành Cổ Loa)
Với thời gian tồn tại và vị thế của thành
Ô Diên có thể thấy đây là một tòa thành có vai trò quan trọng trong hơn nửa thế
kỷ buổi đầu giành được độc lập của dân tộc Việt Nam( 548 -603) kể từ cuộc khởi
nghĩa của Lý Bí với nhà nước độc lập Vạn Xuân và kinh đô Long Biên- nền tảng
cho kinh đô Thăng Long sau này tỏa sáng
II.
Những dấu tích thành cổ Ô Diên.
Sau một thời kỳ lóe sáng của độc lập dân
tộc, nước ta lại chìm vào vòng đô hộ của phong kiến phương bắc Tùy- Đường; cùng
với việc vơ vét kinh tế, chính sách đô hộ đồng hóa văn hóa được các triều đại
thi hành tàn khốc, những dấu tích vang vọng của thời kỳ độc lập qua năm tháng
dần bị mai một, trong đó có thành cổ Ô Diên. Các sử gia sau này khi biên sử
cũng cố công tìm lại dấu xưa nhưng các
ghi chép cũng khác nhau. Về địa danh Ô Diên Phan Huy Chú cho biết “ Đền Nhã Lang ở xã Hạ Mỗ; Nhã Lang là con Hậu
Lý Nam Đế ở đất Ô Diên , lấy con gái Triệu Việt Vương là Cảo Nương, lấy trộm mũ
đầu mâu, có móng rồng rồi phản bố vợ, lập mưu đánh úp Triệu Việt Vương.Ô Diên
tức là xã Hạ Mỗ ”(9). Một số chuyên khảo cho rằng thành Ô Diên ở địa bàn huyện
Đan Phượng ( Hà Tây cũ). Hay “Lý Phật Tử đóng đô ở thành Ô Diên( nay là làng
Đại Mỗ huyện Hoài Đức)” (7). Để tìm về vị trí thành Ô Diên, thử tìm trong tài
liệu lịch sử. Cuộc khởi nghĩa Lý Bí nổ ra năm 541 dẫn đến hình thành nhà nước
độc lập Vạn Xuân và kinh đô Long Biên thành.Năm 544 Lý Bí xưng là Nam việt Đế;
năm 545 nhà Lương đưa quân sang xâm lược, vua thua ở cửa sông Tô Lịch chạy về
thành Gia Ninh, năm 546 thành Gia Ninh thất thủ vua chạy vào đất người Lạo ở
Tân Xương, sau đóng quân ở hồ Điển Triệt. Quân Lương phá quân ở Điển Triệt, vua
lui về động Khuất Lão và giao bình quyền cho đại tướng là Triệu Quang Phục. Năm
550 Triệu Quang Phục thắng quân Lương “ Vua vào thành Long Biên ở” (9). Khi vua
lui về động Khuất Lão thì anh của Lý Nam đế là Lý Thiên Bảo cùng với tướng
người họ là Lý Phật Tử đem 3 vạn người vào Cửu Chân lập nước Dã Năng xưng là
Đào Lang Vương. Năm 555 Đào Lang Vương mất “ Lý Phật Tử lên nối ngôi thống lĩnh
quân chúng”(10). Năm 557 Lý Phật Tử đánh nhau với Triệu Việt Vương 5 lần không
phân thắng bại “ Vua nghĩ rằng Phật tử là người họ của Tiền Lý Nam đế, không nỡ
cự tuyệt, bèn chia đại giới ở bãi Quần Thần ( nay là hai xã Thượng cát và Hạ
cát ở huyện Từ Liêm), cho ở phía Tây của nước. Phật Tử rời xuống ở thành Ô
Diên( nay là xã Hạ Mỗ, huyện Từ Liêm” (11). Năm 571 Lý Phật Tử đánhbại Triệu
Việt Vương và lên ngôi được coi là Hậu Lý Nam Đế. Thành Ô Diên cho đến nay về
vị trí có các nguồn tài liệu khác nhau thuộc địa bàn xã Hạ Mỗ huyện Từ Liêm; xã
Đại Mỗ huyện Hoài Đức và xã Hạ Mỗ huyện Đan Phượng. Theo khảo cứu cho biết vào
thời kỳ nhà Đường đô hộ “ Châu Nam Từ gồm đất 3 huyện Từ Liêm, Ô Diên, Vũ Lập.
Huyện Ô Diên đặt tên là do sông Ô Diên là khúc sông Hồng tiếp sang sông Đưống
tức khoảng huyện Hoài Đức ngày nay” (12).
Thời Lý Lộ Quốc Oai...là miền Hà Tây trên lưu vực sông
Đáy”. Thời Trần châu Từ Liêm gồm hai huyện Đan Phượng và Thạch Thất “Xem thế
thì thấy châu Từ Liêm là tương đương với miền tỉnh Hà Tây ở trên đoạn phía bắc
của sông Đáy”(13)
Thời thuộc Minh huyện Đan Phượng đổi
thành huyện Đan Sơn “ Phủ Giao Châu có châu Từ Liêm lãnh hai huyện Đan Sơn và
Thạch Thất” (14) Đời Lê Quang Thuận lại
đổi tên thành huyện Đan Phượng.
Như vậy dù ghi chép chưa thống nhất xã Hạ
Mỗ của Từ Liêm, Hoài Đức hay Đan Phượng thì vị trí thành Ô Diên vẫn thuộc địa
bàn tỉnh Hà Tây ngày nay và tòa thành này gắn với hệ thống sông Hồng – Đáy chảy
trên địa bàn. Để tìm về địa bàn thành Ô Diên trong lịch sử. Ghi chép của Phan
Huy Chú cho biết “ Đền Nhã Lang ở xã Hạ Mỗ; Nhã Lang là con Hậu Lý Nam Đế ở đất
Ô Diên , lấy con gái Triệu Việt Vương là Cảo Nương, lấy trộm mũ đầu mâu, có
móng rồng rồi phản bố vợ, lập mưu đánh úp Triệu Việt Vương.Ô Diên tức là xã Hạ
Mỗ ”.Phần Đền miếu trong Đại Nam nhất thống chí không thấy ghi chép về đền thờ
Nhã Lang mà có ghi chép về miếu Tiền Lý Nam Đế thờ tại xã Kim Thi huyện Đan
Phượng. Vậy địa điểm thờ Nhã Lang mà
Phan Huy Chú ghi chép có liên quan gì đến thành Ô Diên cũ. Hiện nay trên địa bàn thôn Hạ Mỗ xã Hạ Mỗ huyện
Đan Phượng có tên gọi miếu Hàm Rồng “ Miếu nguyên xưa là gò hạt ngọc, nổi giữa
đầm Hàm rồng, thuộc về trong thành Ô Diên, nay có đê vòng sau miếu”(15). Miếu
còn được gọi là quán Bét cách đọc Bát kiêng húy của Lý Bát Lang. Theo tài liệu
cho biết địa điểm miếu Hàm rồng nay chính là địa điểm xây dựng phủ đệ xưa của
Lý Bát Lang khi Lý Phật Tử định đô tại đây, năm 571 Lý Bát Lang mất, địa điểm
này được xây miếu để phụng thờ (16).
Miếu thờ Lý Bát Lang có phải là
Đền thờ Nhã Lang , hai nhân vật này là hai hay một. Đây là vấn đề lịch
sử cần được khảo cứu thêm. Tại thôn còn có đền Chính khí được xây dựng trên
vùng đất cao nhất của làng Hạ Mỗ. Trên khu đất này được coi là trung tâm thành
Ô Diên xưa nhân dân đã dựng nên một ngôi đền thờ Lý Phật Tử cùng các vương tôn,
tướng lĩnh nhà Hậu Lý Nam Đế. Đền thờ Tứ vị Đại Vương trong đó có Nhã Lang linh
ứng đại vương ( con Lý Phật tử) và Biệt súy Phổ Đỉnh đại vương ( người trần giữ
thành Ô Diên.). Cùng với miếu đền còn có đình Vạn Xuân thờ các nhân vật liên
quan đến thành Ô Diên trong lịch sử. Như vậy vị trí miếu, đền, đình ngày nay, theo tài liệu được xây dựng ở vị trí
trung tâm hay nằm trong lòng thành Ô
Diên cổ và thờ các vị thần liên quan đến triều đại Hậu Lý Nam đế. Có thể thấy mật độ di tích ở đây khá đậm và
thống nhất liên quan đến nhân vật và thành Ô Diên trong lịch sử.
Tài liệu lịch sử và di tích đã cung cấp
phần nào về địa điểm của thành Ô Diên trong lịch sử.
(1)
Việt điện u linh là cuốn sách được Lý Tế Xuyên
viết vào đầu thế kỷ XIV( bài tựa được viết năm 1329) và được tục biên nhiều năm
sau đến thế kỷ XIX. NXB Văn học – Hà Nội 1972 – tr42 -46
(2)
( 3) Đại Việt sử ký toàn thư. NXBKHXH. Hà Nội
1998 – tr 184-185
(4)
Khâm định Việt sử cương mục. NXB KHXH. Hà Nội 2006 tr
( 5 -9)Phan Huy Chú : Lịch triều hiến chương
loại chí Tập I. NXB Giáo dục – Hà Nội 2008 tr 224- 134
(6)
Trần Trọng Kim: Việt Nam
sử lược.NXB Đà Nẵng 2003 – tr 54
(7)
Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam
qua các đời. NXB Thuận Hóa -1995 tr 84
(8)
Viện sử học: Lịch sử Việt Nam
từ khởi thủy đến thế kỷ X. NXBKHXH Hà Nội 2001 tr 348 -350
(9-
10- 11)Đại Việt sử ký toàn thư. NXBKHXH. Hà Nội 1998 – tr 183
(12-13)Đào
Duy Anh: Đất nước Việt Nam
qua các đời. NXB Thuận Hóa -1995 tr 88-
130
(14)
Đại Nam Nhất thống chí. Tập IV. NXB Thuận Hóa – 2006 tr212
(15)
Thần tích, thần sắc làng Hạ Mỗ, tổng Thượng Hội, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông-
Viện thông tin KHXH – Hà Nội 1995
(16)
Theo: Hậu Lý Nam Dế Bát Lang Hoàng công Hy Minh Dũng nghị đại vương ngọc phả cổ
lục – soạn năm 1572