Thứ Bảy, 9 tháng 3, 2013

                         VÀI  NÉT VỀ THIỀN PHÁI TRÚC LÂM – PHẬT GIÁO VIỆT NAM
                                                                                                Lê Đình Phụng ( Viện khảo cổ học)
           Phật giáo- một tôn giáo lớn trên thế giới và có vị trí đặc biệt trong đời sống tinh thần của cư dân Đông Nam á nói chung và ở nước ta nói riêng có mặt ở Việt Nam khá sớm. Theo một số tài liệu lịch sử, phật giáo từ  Ấn Độ theo đường biển du nhập vào nước ta, kết hợp với tín ngưỡng dân gian địa phương, ngay từ những thế kỷ đầu tiên đã hình thành nên một số trung tâm Phật giáo lớn trong đó có  Luy Lâu ( Thuận Thành – Bắc Ninh). Theo năm tháng, vai trò của Phật giáo ngày càng lan tỏa và trở thành tôn giáo giữ vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của cư dân Việt. Nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Việt Nam, các nhà nghiên cứu xác định Phật giáo ở Việt Nam  buổi đầu có nhiều thiền phái khác nhau như : Vô ngôn thông; Tỳ Ni đa lưu chi…(1) và coi sáng tổ của thiền học Việt Nam là Khương Tăng Hội. Sự ảnh hưởng của phật giáo trong mỗi thời kỳ lịch sử có khác nhau và ngày càng đóng vai trò quan trọng, đặc biệt trong buổi đầu dân tộc ta giành được độc lập, xây dựng nền tự chủ, vai trò của Phật giáo ngày càng được khẳng định trong đời sống xã hội và tinh thần. Dưới triều vua Đinh – Lê, Phật giáo được triều đình công nhận đề cao là một bộ phận gắn bó chặt chẽ với bộ máy quản lý nhà nước “ Tăng thống Ngô Chân Lưu được được ban hiệu là Khuông Việt đại sư, Trương Ma Ni làm tăng lục” (2) . Năm 987 sứ nhà Tống Lý Giác sang; vua Lê Đại Hành đã sai nhà sư Pháp Thuận ra đón tiếp (3). Nhưng cũng có thời vai trò của Phật giáo ít được coi trọng. Vua Lê Long Đĩnh “ róc mía trên đầu sư Quách Ngang, giả vờ lỡ tay làm đầu sư bị thương chảy máu rồi cả cười” (4).
 Dưới thời Lý, được sự ủng hộ của Phật giáo, Lý Công Uẩn lên ngôi đã tạo nên một thời kỳ mới của Phật giáo Việt nam. Năm 1010 “độ dân làm sư” nhiều chùa được xây dựng, đúc chuông, tô tượng là việc làm thường niên, năm 1016 “độ cho hơn nghìn người ở kinh sư làng tăng đạo” đó là chưa kể đến các địa phương. Sư Vạn Hạnh được phong làm Quốc sư,  Phật giáo đã chiếm vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội Việt Nam.Từ phật giáo mang tính chất quần chúng, sau nhiều sự thăng trầm đến giaiđoạn này phật giáo đã
( 1) Tham khảo thêm:
-    Nguyễn Lang: Việt Nam Phật giáo sử luận. NXB Lá Bối . Sài Gòn 1971
-    Viện Triết học: Lịch sử phật giáo Việt Nam. NXB KHXH . Hà Nội 1998
(2-3) Đại Việt sử ký toàn thư. NXBKHXH Tập I tr 212-224
 (4) Đại Việt sử ký toàn thư. NXBKHXH Tập I tr 236

mang tính chất dân tộc. Sự thắng thế của Phật giáo thời Lý được  thể hiện qua việc Lý Thái Tông được coi là đệ tử thứ 7 của thiền phái Vô Vôn Thông và hội tụ thăng hoa đỉnh cao là sự ra đời của Phật giáo cung đình- Thiền phái Thảo Đường. Năm 1069                                                    Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, trong số những tù binh bắt được đưa về Thăng Long có một nhà sư Trung Quốc. Là người hâm mộ đạo phật, tiếp thu những giáo lý Phật giáo; Lý Thánh Tông  đã đưa vị sư này về chùa Khai Quốc, phong làm Quốc sư  khai sinh ra phái Thảo đường và tự mình  trở thành thế hệ đầu của thiền phái này. Ông là vị vua đầu tiên  khai sáng ra một thiền phái của phật giáo Hoàng gia. Thiền phái Thảo đường duy trì được 5 thế hệ trong đó có 3 vị vua tham gia ( Lý Anh Tông thế hệ thứ ba;  Lý Cao Tông thế hệ thứ năm) cùng nhiều vị quan lại đại thần trong triều như Tham chính Ngô Ích ( thế hệ thứ hai); Thái phó Đỗ  Anh Vũ(thế hệ thứ  ba); thái phó Đỗ Thường ( thế hệ thứ tư) và Quản giáp Nguyễn Thức ( thế hệ thứ năm). Vị vua áp chót của vương triều Lý: Lý Huệ Tông cuối đời  hoàn toàn dấn thân vào  phật giáo . Năm  1224 “ Mùa  đông tháng 10…vua xuất gia  ở chùa Chân Giáo trong Đại Nội ” và  cuối đời tự tử cũng hỏa thiêu “ chứa xương vào tháp chùa Bảo Quang” như một phật tử. Có thể thấy Phật giáo là  một trong những nguồn tạo nên vương triều Lý và cũng là nơi nương náu cuối cùng cho vương triều này. Thiền phái Thảo đường là thiền phái phật giáo hoàng gia đầu tiên trong các vương triều Việt Nam. Nhưng thiền phái này chưa có sức lan tỏa, ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội tinh thần của cư dân mà chỉ bó hẹp trong hoàng gia và quan lại. Theo thống kê  thiền phái này có gần 20  nhà sư  tu hành khá nổi tiếng trong giới Phật học Việt Nam thời nhà Lý.(1) Đây là bước chuẩn bị quan trọng để sau này vương triều Trần tiếp thu, hoàn thiện  lập nên thiền phái Trúc Lâm trong lịch sử phật giáo Việt Nam.
I Nguồn gốc của thiền phái Trúc Lâm.
Thiền phái Trúc Lâm, trước hết về tên gọi, cũng như thiền phái Thảo  Đường có nguồn gốc tên gọi từ vị sáng lập đầu tiên. Sau hai lần lãnh đạo chống quân xâm lược Nguyên Mông thắng lợi, đất nước thanh bình : Bốn biển đã quang trần đã lặng (  Tứ hải dĩ thanh (1) Tham khảo thêm: Nguyễn Hào Hùng: Đại  cương triết học phật giáo Việ Nam. NXBKHXH Tập I tr 104
trần dĩ tĩnh), thế đất nước đã vững vàng : Non sông ngàn thuở vững âu vàng ( Sơ hà thiên cổ vạn kim âu)  Trần Nhân Tông nhường ngôi xuất gia đi tu “ Thượng hoàng xuất gia,  tu
ở ngọn Tử Tiêu núi Yên Tử, tự hiệu là Trúc Lâm đại sĩ” (1)..Theo nhiều nhà nghiên cứu cho biết vị tổ  khai sơn môn phái Yên tử là Hiện Quang Thiền Sư;  đệ tử của Thiền sư Thường Chiếu chùa Lục Tổ ( Bắc Ninh) thế hệ thứ 12,  thuộc thiền phái Vô Ngôn Thông. Thiền sư Hiện Quang thuộc thế hệ thứ 14( ? – 1221). Ông là người Thăng Long, họ Lê tên Thuần, xuất gia từ năm 11 tuổi “ chưa đầy 10 năm  thông giỏi cả tam giáo”. Sau nhiều năm vân du thiên hạ, ông “ bèn đến chỗ sâu trong núi Yên Tử kết am tranh mà ở” “ nương thân Phật đạo trong chốn núi rừng” (2). Ông là người mở đầu cho môn phái Yên Tử.  Những công trình đầu tiên xây dựng ở Yên Tử  là am tranh nhỏ bé và khiêm tốn nương trong chốn núi rừng, ẩn thân giữa không không khí phát triển rầm rộ của đạo phật đang thăng hoa trong tinh thần dân tộc với các công trình kiến trúc phật giáo xây dựng đồ sộ quy mô to lớn như Phật Tích( Bắc Ninh), Tường Long( Hải Phòng). Mặc dù vậy, sự uyên thâm về giáo lý, đức độ về tu thân, từ bi bác ái trong cộng đồng, đức vọng của ông lan tỏa đến tận kinh đô Thăng Long. Vua Lý Huệ Tông nhiều lần đưa lễ vật đến mời về kinh, nhưng đều bị chối từ. Đây chính là khởi nghiệp thuận lợi của môn phái Yên Tử mà sau này được nhà Trần kế thừa và phát huy. Kế nghiệp Thiền Sư Hiện Quang là Thiền sư Tĩnh Lự hiệu là Phù Vân. Ông được vua Trần Thái Tông gọi là Trúc Lâm Đại sa môn, tôn xưng là quốc sư.  Sau này khi xuất gia Trần Nhân tông tự xưng là Trúc Lâm đại sĩ. Do vậy, thiền phái này có tên gọi là Trúc Lâm. Thiền phái Trúc Lâm lấy cơ sở của môn phái Phật giáo tại núi Yên tử làm trung tâm, dưới sự bảo trợ của triều Trần dần lan tỏa ảnh hưởng.
II. Sự phát triển của thiền phái Trúc Lâm
Nhà Trần vốn xuất thân “ đời đời làm nghề đánh cá” (3) ở hương Tức Mặc phủ Thiên Trường, sau những biến động cuối triều Lý dần thu tóm quyền lực và thay thế vương triều Lý vào năm 1226. Từ xuất phát điểm  “ Nhà ta vốn là người hạ lưu” , để  giành và củng cố quyền lực quản lý đất nước, triều Trần ngay từ buổi đầu đã dựa vào Phật giáo, lấy Yên Tử làm cơ sở của mình. Vị vua đầu tiên Trần Thái Tông có nhiều mối quan hệ chặt chẽ với môn phái này. Năm 1237 khi xảy ra mâu thuẫn Hoàng tộc, Thái Tông “ ban
 ( 1- 3) Đại Việt sử ký toàn thư. NXBKHXH Tập II,  tr 92 – 7- 16
(2) Thuyền uyển tập anh. NXB Văn Học. Hà Nội  1990
đêm ra khỏi kinh thành đến chỗ Quốc Sư Phù Vân trên núi Yên Tử rồi ở lại đó”. Dù không thực hiện được ý nguyện, nhưng có thể coi đây là lần xuất gia đầu tiên của  một vị vua vương triều Trần. Được sự chú trọng, quan tâm của Hoàng gia, môn phái Yên Tử ngày càng phát triển, đến đời Trần Nhân Tông ( Cháu nội Thái Tông) nơi đây trở thành trung tâm Phật giáo lớn khai sáng nên một thiền phái Phật học mang đậm tính dân tộc, thiền phái Trúc Lâm, đứng đầu là vị tổ thứ nhất Trần Nhân Tông. Vua Trần Nhân Tông lên ngôi năm 1278, nhường ngôi năm 1293 “ ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm thọ 51 tuổi, băng ở am Ngọa Vân núi Yên tử” (1).
Trần Nhân tông xuất gia năm 1299 mất năm 1308. Trước khi xuất gia ông đã có mối quan hệ chặt chẽ với  thiền phái Yên tử, năm  1295 từ hành cung Vũ Lâm ông đã lên Yên tử. Năm 1299 ông cho xây am Ngự Dược trên núi Yên tử và tháng 8 năm 1299 “ Thượng hoàng từ phủ Thiên Trường lại xuất gia vào núi Yên Tử tu khổ hạnh”. Ông trở thành vị tổ thứ 6 của phái Yên tử và tổ thứ nhất của phái Trúc Lâm. Dưới sự khuyếch trương của Trúc Lâm Đại sĩ, sự bảo trợ của Hoàng gia, thiền    


Tượng vua Trần Nhân Tông   
phái Trúc Lâm đã trở thành trung tâm của Phật giáo thời Trần. Yên Tử trở thành trung tâm của giáo hội mà Trần Nhân Tông được coi là giáo chủ. Qua nhiều nguồn tư liệu để lại cho đến ngày nay được biết, thiền phái Trúc Lâm có 3 vị tổ ( Trúc Lâm tam tổ): Trần Nhân Tông – Pháp Loa – Huyền Quang. Vị tổ thứ 3 Huyền Quang viên tịch năm  1334, sau đó sự ảnh hưởng của thiền phái Trúc Lâm dần suy giảm, đến thế kỷ XVII thiền sư Chân Nguyên mới khởi đầu phục hưng  dần môn phái Trúc Lâm và duy trì cho đến ngày nay.
Từ cơ sở ban đầu  là nền tảng với trung tâm là Yên Tử, về hệ tư tưởng nhà Trần tiếp tục xây dựng  và phát triển nên hệ thống tư tưởng độc lập dân tộc thể hiện qua thiền phái Trúc Lâm. Trong điều kiện vua là người sáng lập nên thiền phái, do đó số hoàng thân quốc thích tham gia khá đông đảo. Có thể kể một số vị thuộc Hoàng gia như: Hưng ninh vương- Tuệ Trung Thượng sĩ; Văn Huệ vương Trần Quang Triều; Tuyên Chân công chúa, Lệ Bảo công chúa vv.. Tiếp theo là vương công quý tộc, quan lại mà đỉnh cao là Huyền Quang  đã từng đỗ tiến sĩ làm quan rồi xuất gia đi tu thành vị tổ thứ ba.  Phong trào  gia nhập thiền phái Trúc Lâm phát triển mạnh mẽ. Theo ước tính vào thời kỳ thịnh có đến gần 30.000 tăng sĩ. Sức lan tỏa của Phật giáo Trúc Lâm đến nỗi nho gia Lê Bá Quát viết “  Trên từ vương công dưới đến thứ nhân, hễ nói đến việc bố thí cúng dường vào Phật sự thì dù hết tiền của cũng không tiếc… Hễ chỗ nào có nhà ở thì có chùa Phật…”;
 Về cơ sở vật chất Là Phật giáo Hoàng gia, được sự quan tâm bảo trợ của chính quyền, từ Yên Tử lan tỏa, các cơ sở của Trúc Lâm có sự bùng nổ mạnh mẽ cả về số lượng và quy mô. Theo thống kê vào thời Trần nước ta có khoảng 9.500 ngôi chùa(1). Riêng phái Trúc Lâm với Yên Tử( chùa Hoa Yên) là trung tâm,  cơ sở  chính  là các chùa Quỳnh Lâm-  Côn Sơn( Hải Dương)-  Vĩnh Nghiêm ( BắcGiang) - Báo Ân( Bắc Ninh xưa)  và hàng trăm chùa khác hình thành nên tuyến phật giáo chủ đạo từ Thăng Long đến Yên Tử. Tư liệu lịch sử cho biết, riêng Pháp Loa - đệ tổ thứ hai -  cho xây dựng đến 200 chùa đúc hơn 1.300 tượng phật bằng đồng lớn nhỏ. Chùa Quỳnh Lâm có đến hơn 1.000 mẫu ruộng



Gác chuông chùa Quỳnh Lâm    và hơn 1.000 người để canh tác.Các chùa Siêu loại; Báo Ân cũng có tình trạng tương tự.  Số ruộng đất này đa phần do Hoàng gia nhà Trần cung tiến (1).Thiền phái Trúc Lâm cực thịnh về nhân lực và tài lực, trở thành hậu thuẫn cho vương triều và phát triển thành một thiền phái phật giáo có tính nhà nước,  tổ chức chặt chẽ từ trung ương đến địa phương, có cơ sở vật chất, giáo luật hoàn chỉnh. Cùng với sự phát triển của Phật giáo, nho giáo cũng được nhà Trần chú trọng, các kỳ thi tuyển chọn nhân tài nho giáo được tổ chức làm nguồn bổ xung quan lại quản lý xã hội. Dù nho hay phật vẫn nằm    
 dưới sự quản lý chung của vương triều. Vương triều điều hòa sự hòa nhập giữa nho và Phật tạo nên hai nguồn lực cơ bản: quản lý hành chính và quản lý tư tưởng thống nhất tạo nên sức mạnh chung cho dân tộc. Sự bảo trợ của Hoàng gia với một thiền phái Phật giáo, tạo nên sự hưng thịnh nhưng cũng là nguyên nhân dẫn tới sự suy vong . Do được ưu ái, tạo mọi điều kiện để phát triển,  sự tham gia ào ạt của mọi tầng lớp cư dân, sự bùng nổ số lượng nhân lực và cơ sở vật chất dẫn đến giáo hội không kiểm soát được. Sau năm 1334 (1) Tham khảo thêm: Việt Nam phật giáo sử luận . Sdd tr 453
khi tổ thứ 3 của Phái trúc Lâm là Huyền Quang mất thì Trúc Lâm dần đi vào suy vong. Là tổ chức giáo hội chủ yếu là tạo nên hệ tư tưởng, duy trì phát triển dưới sự bảo trợ của vương triều, khi điều kiện ủng hộ  kém dần thì vai trò cũng dần mờ nhạt. Năm  1396 Trần Thuận Tông “ xuống chiếu sa thải các tăng đạo chưa đến  50 tuổi trở xuống, bắt phải hoàn tục”. Năm 1399 “ Quý Ly cưỡng bức  vua xuất gia thờ đạo giáo, ra ở quán Ngọc Thanh thôn Đạm Thủy” ( Đông Triều); tự nhận là Thái thượng Nguyên quân Hoàng Đế. Năm 1400 Hồ Quý Ly cướp ngôi, vương triều Trần kết thúc thì vai trò của  thiền phái Trúc Lâm cũng dần mờ nhạt trong đời sống cung đình và trong nhân dân.
III. Những đóng góp của thiền phái Trúc Lâm
Trong quá trình tồn tại, phát triển của Trúc Lâm đã có nhiều đóng góp vào văn hóa dân tộc. Trước hết thiền phái Trúc Lâm là thiền phái Phật giáo Hoàng gia, đây chính là điều kiện tiên quyết để thiền phái này hội tụ và phát triển. Đạo phật nước ta có mặt trong cộng đồng cư dân khá sớm với nhiều thiền phái khá nhau. Sự ảnh hưởng của các thiền phái thể hiện khác nhau qua hệ tư tưởng. Thiền phái Tỳ ni đa lưu chi mang đậm sắc thái  văn hóa của Phật giáo  Ấn Độ; thiền phái Vô ngôn thông mang đậm sắc thái văn hóa Trung Hoa.
Hệ tư tưởng hai thiền phái này đều không thỏa mãn nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ độc lập tự chủ của dân tộc. Chính vì thế, khi quản lý đất nước, trước yêu  cầu cụ thể cần quản lý đất nước và xây dựng  một hệ tư tưởng độc lập cho nhà nước Đại Việt, các vua Lý đã  góp phần khai lập nên một thiền phái mới – thiền phái Thảo đường. Đây là thiền phái dung hợp hai yếu tố nho giáo và Phật giáo. Cùng với việc  khuyến học, sử dụng nho giáo vào quản lý đất nước( năm 1070 lập văn miếu thờ Khổng Tử, cho Hoàng thái Tử đến học; năm  1075 tuyển Minh Kinh bác học và thi nho học Tam trường, năm 1077 thi viên lại bằng phép viết chữ, phép tính và hình luật vv…) thì việc bổ dụng các vị cao tăng cũng đề cao phật giáo, năm 1088 phong nhà sư Khô đầu làm quốc sư, cho quan văn chức cao kiêm làm đề cử để quản lý ruộng đất và tài sản nhà chùa. Phật giáo từng bước hòa nhập vào chính quyền, các quan lại vừa quản lý chính quyền vừa là phật tử, trở thành hậu thuẫn quan trọng cho vương triều.
Vương triều Trần ( 1226 -1400),  mở đầu bằng vị vua sùng đạo Phật ( Trần Thái Tông), kết thúc bằng vị vua theo Đạo giáo ( Trần Thuận Tông); nổi bật lên là vị vua Phật giáo ( Trần Nhân Tông) sáng lập nên thiền phái Trúc Lâm. Nếu lấy mốc năm 1299, Trần Nhân Tông xuất gia lập nên thiền phái Trúc Lâm đến năm 1400 nhà Trần mất vai trò lịch sử thì thiền phái này tồn tại  khoảng 1 thế kỷ, trong đó có 35 năm phát triển rậm rộ, có hệ thống tổ chức với 3 vị tổ ( 1299 – 1334). Trong một  thế kỷ trị vì của nhà Trần giai đoạn này về cơ bản là xã hội thanh bình, bên ngoài không có một cuộc chiến tranh xâm lược
nào can thiệp. Một thế kỷ của thiền phái Trúc Lâm gắn với sự thịnh suy của vương triều này. Trúc Lâm ra đời sau thắng lợi vang dội của 3 cuộc kháng chiến đánh thắng quân Nguyên – Mông, âm hưởng hào hùng của cuộc chiến gắn với vương triều Trần, nhà Trần đủ uy và lực để lập nên một thiền phái đạo phật làm ngọn cờ tư tưởng cho dân tộc và vương triều. Thực tế, tư tưởng của thiền phái này ngoài nâng cao ý thức độc lập dân tộc thì cũng là hệ tư tưởng bảo vệ quyền lợi của vương triều sáng lập ra. Các cơ sở của Trúc Lâm thực ra    


Tượng chân dung chùa Quỳnh Lâm   
cũng là một hình thức “điền trang thái ấp ” nấp dưới vỏ tôn giáo. Khi hình thái kinh tế này bộc lộ những hạn chế của nó dẫn đến việc cải cách của Hồ Quý Ly, ngoài việc phá vỡ điền trang thái ấp của  vương công quý tộc, thì các cơ sở tôn giáo này cũng lâm vào tình  trạng tương tự. Sự mất vai trò của quý tộc nhà Trần, dẫn đến sự suy giảm của thiền phái. Điều khác biệt là khi vương triều này sụp đổ thì hệ tư tưởng ấy vẫn tồn tại mãi với thời gian, cho đến ngày hôm nay trong đời sống tinh thần của người dân đương đại.
Từ phật giáo Hoàng gia thời Lý ( phái Thảo Đường) đến phật giáo Hoàng gia  thời Trần( phái Trúc Lâm) là cả một quá trình xây dựng, củng cố hệ tư tưởng của dân tộc và triều đại. Hệ tư tưởng ấy phù hợp với nguyện vọng dân tộc, được các vương triều  sử dụng làm nền tảng ý thức để gìn giữ độc lập dân tộc và gìn giữ quyền lợi vương triều. Chính dựa trên  nền tảng tư tưởng ấy nên hai vương triều đã quản lí xã hội một thời gian dài trong lịch sử mà các vương triều trước đó không có được. Nhà Lý kéo dài 217 năm ( 1009 – 1226); nhà Trần  174 năm ( 1226 -1400); trong khi đó các triều đại trước như nhà Ngô 27 năm ( 939 – 965); nhà Đinh 12 năm( 968 -980) và nhà Tiền Lê 29 năm ( 980 – 1009).
Vậy thiền phái Trúc Lâm mang đặc trưng gì trong đạo Phật Việt Nam.
-  Thiền phái Trúc Lâm là sự kế thừa, kết tinh của tinh thần phật giáo Việt Nam, từ thiền phái vô Ngôn Thông, mà trực tiếp là môn phái Yên Tử. Sự xuất hiện của môn phái phật giáo Hoàng gia được kế thừa, kết tinh nhiều yếu tố từ phật giáo Hoàng gia có trước đó là thiền phái Thảo Đường  nhà Lý, hoàn thiện, bổ xung thêm ý thức dân tộc. Thiền phái Trúc Lâm ra đời là sự tiếp nối, nhất thống,  chính thức mở đầu cho sự kết hợp giữa chính quyền và tôn giáo có tổ chức.
- Thiền phái Trúc Lâm  là giáo hội do người đứng đầu chính quyền dựng nên. Lần đầu tiên giáo hội Việt nam có một tổ chức thống nhất từ Trung ương đến địa phương, có cơ sở vật chất, tăng ni hùng hậu giữ vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội và tinh thần của dân tộc.
-  Trong quá trình tồn tại và phát triển, thiền phái Trúc Lâm đã xây dựng nên hệ tư tưởng mang bản sắc riêng của phật giáo Việt Nam, đó là sự kết hợp hài hòa, giữa các hệ tư tưởng xã hội ( Phật giáo, nho giáo, đạo giáo) mang tinh thần dân tộc và vì dân tộc. Xây dựng và bồi đắp hệ tư tưởng độc lập của dân tộc có hệ thống là nền tảng tư tưởng để xây dựng một triều đại phát triển
- Sự kết hợp chặt chẽ giữa chính quyền quản lý xã hội với phật giáo  đã đưa phật giáo nhập thế xã hội, tăng cường sự đoàn kết toàn dân tạo nên sức mạnh cho dân tộc.
Từ tinh thần độc lập dân tộc được thiền phái Trúc Lâm kế thừa, xây dựng bồi đắp, kết hợp với sự vững mạnh của chính quyền đã tạo nên cơ sở vật chất và tinh thần cho quân dân Đại Việt 3 lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên - Mông vào thế kỷ XIII. Đây chính là sự đóng góp của thiền phái Trúc Lâm trong lịch sử Việt Nam.
Do những biến động của xã hội, sau khi nhà Trần mất vai trò lịch sử, sự ủng hộ của Hoàng Gia dần ít đi là một trong những nguyên nhân dẫn đến thiền phái Trúc Lâm kém phát triển. Phật giáo của Hoàng gia, gắn với Hoàng gia, khi Hoàng gia không còn thì sự kém đi là tất yếu. Mặc dù Hoàng gia  nhà Trần dẫu không còn, thì tư tưởng và những đóng góp của thiền phái Trúc Lâm vẫn tồn tại và sau này khi có điều kiện lại tiếp tục phục hưng phát triển. Đặc biệt vào thế kỷ XVII – XVIII khi được sự quan tâm của  tầng lớp quản lý xã hội thời Lê –Trịnh hàng loạt các ngôi chùa “ cứ điểm” của Trúc Lâm xưa được trùng tu tôn tạo lại quy mô to lớn hơn, khang trang hơn như Quỳnh Lâm, Côn Sơn, Báo ân, hệ tư tưởng Phật giáo này lại có điều kiện tỏa sáng trong đời sống tinh thần người dân đương đại, đến nỗi vào thế kỷ XVII, Nguyễn Dữ đã nhận xét  ở Đông Triều chùa “… dựng nhan nhản khắp nơi, những người cắt tóc làm tăng ni nhiều bằng nửa số dân thường…”. Hệ tư tưởng này còn tiếp tục lan tỏa xuống phía nam theo chân người Việt “ đi mở cõi”, nhiều dòng Trúc Lâm với các cơ sở Phật giáo được xây dựng tại Quảng Nam, Bình Định, Lâm Đồng… đã tạo nên sức sống mới cho hệ tư tưởng Phật giáo dân tộc này. Đó chính là sức sống của Phật giáo nói chung và của thiền phái Trúc Lâm nói riêng trong đời sống tinh thần người dân Việt./.

Thứ Năm, 7 tháng 3, 2013

Đây là bài viết trong Hội thảo về Phật Giáo ở Nghệ An năm2012. Mặc dù còn nhiều vấn đề còn tiếp tục nghiên cứu, nhưng có thể coi đây là những suy nghĩ bước đầu


 Phật giáo nơi xứ Nghệ

                  Nghệ An là một vùng đất văn hóa cổ. Từ buổi đầu dựng nước, nơi đây đã hình thành một vùng kinh tế, văn hóa hưng thịnh theo chiều dài lịch sử đất nước và góp một dòng chảy quan trọng vào hình thành bản sắc văn hóa dân tộc trong lịch sử. Cách ngày nay hai ba vạn năm trước dấu vết văn hóa xuất hiện thời đại đá cũ ở lớp dưới cùng Làng Vạc (Nghĩa Đàn). Di tích văn hóa Hòa Bình ở vùng núi đá vôi như Hang Chùa (Kỳ Sơn), Thẩm Hoi (Con Cuông) và di tích văn hóa Quỳnh Văn (Quỳnh Lưu) ở vùng ven biển thuộc sơ kỳ thời đại đá mới. Thời đại đồng thau có các di tích Núi Cật, Rú Trăn (Nam Đàn) thuộc giai đoạn Tiền Đông Sơn. Đến giai đoạn văn hóa Đông Sơn có di tích Đồng Mõm (Diễn Châu) và đặc biệt là di tích Làng Vạc nổi tiếng....đã hình thành nên tuyến văn hóa trên vùng đất Nghệ An. Bước vào thời kỳ lịch sử cùng với truyền thống văn hóa của cư dân bản địa, thông qua giao thương những thành tố văn hóa mới gia nhập vùng đất trong đó có Phật giáo.
I. Một vài  ghi chép về Phật giáo ở Nghệ An
Theo những tài liệu lịch sử cho biết, do vị trí thuận lợi nằm trên con đường giao thưởng biển, Phật giáo đã sớm có mặt trên vùng đất Nghệ An. Theo Lĩnh nam chích quái cho biết Chử Đồng Tử đã sớm tiếp thu ảnh hưởng của Phật Giáo tại am núi Quỳnh Viên( nay là phía nam cửa Nam Giới hay cửa Sót – Hà Tĩnh) do tiểu tăng Phật Quang truyền pháp (1). Nếu tài liệu tin cậy, có thể thấy cùng với Luy Lâu ( Bắc Ninh) một trung tâm Phật giáo lớn, sớm ở đồng bằng Bắc Bộ, thì Nghệ An cũng là địa điểm có mặt sớm của Phật giáo ở nước ta. Theo năm tháng, Phật giáo ngày càng lan tỏa, nơi đây xuất hiện nhiều cơ sở Phật giáo và Thiền sư nổi tiếng.Trong lịch sử Phật giáo cũng có một số ghi chép về những vị Thiền Sư (1) Tham khảo thêm:
- Truyện Nhất Dạ trạch trong Lĩnh Nam chích quái. NXB Văn học .Hà Nội 2001 tr 50 – 56
- Châu Nghệ An – Trấn Nghệ An thời Lý – Trần- Lê trong lịch sử,  đến năm 1831, vua Minh Mệnh chia trấn Nghệ An thành 2 tỉnh: Nghệ An (bắc sông Lam) và Hà Tĩnh (nam sông Lam).
xuất thân trên vùng đất, hay chọn nơi đây làm nơi tu hành như :
- Thiền sư Tịnh giới( ?- 1207) tu tại chùa Quốc Thanh núi Bi Linh phủ Nghệ An ( có thuyết nói chùa Quốc Thanh ở phủ Trường An).
- Thiền Sư Y Sơn ( ? -1213). Thiền sư họ Nguyễn quê ở Cẩm Hương phủ Nghệ An. Năm ba mươi tuổi ông xuất gia học đạo với một vị trưởng lão trong bản hương, sau lên kinh đô tham vấn Quốc Sư Viên thông, được quốc sư truyền cho tâm ấn.
- Thiền Sư( ? – 1221) Hiện Quang người kinh đô Thăng Long tu tại chùa Lục Tổ “ sau sư vào núi Uyên Trừng phủ Nghệ An, thụ giới cụ túc với Thiền Sư Pháp Giới” sau đó lại về kết am tranh mà ở ở núi Yên Tử.
Sử cũ còn ghi lại:
- Năm 1073 Thái sư Lý Đạo Thành “ ra coi châu Nghệ An. Đạo Thành lập viện Địa Tạng ở trong miếu vương thánh châu ấy, ở giữa viện đặt tượng Phật...”(2)
- Năm 1270 “ Tĩnh quốc đại vương Quốc Khang dựng phủ đệ ở Diễn châu, hành lang điện vũ bao quanh, tráng lệ khác thường. Vua nghe tin sai người đến xem. Tĩnh Quốc sợ, mới tạc tượng Phật để ở đó ( nay là chùa Thông) (3)
Những ghi chép này cho biết, trước các vị Thiền Sư nổi tiếng được biết đến thì nơi đây đã có nhiều cơ sở Phật giáo tồn tại sớm trong lịch sử. Hiện nay trên địa bàn Nghệ An còn lại một số ngôi chùa khá nổi tiếng:
- Chùa Đại Tuệ nằm trên một quả núi (thuộc xã Nam Anh, huyện Nam Đàn) của dãy núi Đại Huệ một trong những danh thắng bậc nhất xứ Nghệ. Từ đây, khách thập phương nhìn thấy toàn cảnh của một vùng rộng lớn từ Hòn Ngư, biển Đông cho tới Thanh Chương, Hưng Nguyên, Nam Đàn, từ dãy Hồng Lĩnh, dãy Thiên Nhẫn hùng vĩ cho đến Lam Giang, La Giang thơ mộng của vùng Đức Thọ, Nghi Xuân. Chùa Đại Tuệ được tương truyền  xây dựng vào vua Mai Hắc Đế ( TKVII), tồn tại đến thế kỷ XV được Hồ Quý Ly cho trùng tu, xây dựng lại thời (1)Tham khảo thêm: Thiền Uyển tập anh. NXB Văn học. Hà Nội 1990, tr 133;160; 243
(2- 3)Đại Việt Sử ký toàn thư.NXB KHXH. Hà Nội 2004  Tập I, tr  277; Tập II tr 38
Phật Bà Đại Tuệ. Chùa từ lâu đã là một ngôi chùa cổ linh thiêng của xứ Nghệ và của cả nước. Do biến thiên lịch sử chùa Đại Tuệ chỉ còn lại một mái tranh giữa đồi núi hoang sơ.
- Chùa Vĩnh Phúc xã Nam Xuân - huyện Nam Đàn – tỉnh Nghệ An được tương truyền xây dựng  vào thời nhà Lý (1138 -1139). Dưới thời hậu Lê, trụ trì chùa là nhà sư Nguyễn Bá Na, cháu đích tôn của ông Nguyễn Hiên – một Quận Công khai quốc công thần thời Lê Lợi, phò Lê Lợi đánh đuổi quân xâm lược nhà Minh, giành độc lập tự chủ cho đất nước Việt Nam. Nguyễn Bá Na là một nhà sư thông tuệ, tiếng thơm khắp kinh thành Thăng Long, được Vua Lê sắc chỉ là Hòa thượng Thiền sư, pháp hiệu là Pháp Tâm Như Lai.
- Chùa Cần Linh, phường Cửa Nam thành phố Vinh
- Chùa Phổ Nghiêm làng Trung Kiên, xã Nghi Thiết, huyện Nghi Lộc....
 Những ghi chép và sự hiện diện của các cơ sở Phật giáo cho thấy Nghệ An là một vùng đất ảnh hưởng của Phật giáo khá đậm trong đời sống tinh thần dân cư  kéo dài theo suốt dặm dài lịch sử cho đến ngày nay.
II Những chứng cứ Lịch sử.
1.Tháp Nhạn- Một công trình Phật giáo  ở Nghệ An
Do vị thế của vùng đất, trải qua năm tháng, do điều kiện tự nhiên cùng những biến động của xã hội, cho đến nay những dấu tích của Phật giáo còn lại không nhiều. Các cuộc điều tra khảo sát trên địa bàn tỉnh hầu như ít gặp các cơ sở Phật giáo có niên đại sớm trong lịch sử ghi chép.Trong những dấu tích Phật giáo để lại ở Nghệ An, có thể thấy Tháp Nhạn được coi là một trung tâm Phật giáo lớn. Tháp Nhạn được xây dựng trên một quả núi thấp, bằng phẳng rộng vài vạn m2 thuộc địa bàn xã Hồng Long, huyện Nam Đàn. Truyền thuyết địa phương nói về một cây tháp đổ và đã được nhiều lần khảo sát. Năm 1985 -1986 Viện Khảo cổ học đã tiến hành khai quật ngôi tháp đổ này. Kết quả khai quật cho thấy, tháp được xây bằng gạch, mặt bằng chân tháp hình gần vuông ( 9,6m x 9m). Bề mặt tường tháp phần chân dày 2,3m, phần còn lại mặt trên là 1,6m. Xung quanh đế tháp là hệ thống sân lát gạch khá vuông ( 14,2m x 14m). Cấu trúc lòng tháp hình thang cân úp ngược, phía trên rộng 5,73m x 5,6m, đáy phía dưới rộng 3,2m x 3,18m. trong lòng tháp qua khai quật tìm được:
- Phía trên là bệ thờ xây bằng gạch khối hộp vuông. Kích thước 0,44m x 0,44m cao 0,8m.(1)
- Bệ được xây trên nền đất trộn sỏi hình bầu dục. Chiều dài 2,5m, rộng 1,6m. Dưới chân ụ đất có một bộ sưu tập hiện vật gồm: một hộp đồng vuông 6 mặt. Một mảnh vòng tròn hào quang. Một mảnh bàn tay tượng. Ba mươi mảnh đồng và cục sỉ đồng.
- Dưới ụ đất trộn sỏi là lớp đất màu mềm dày 0,10m, tiếp đến là lớp than củi dày 5cm
- Dưới cùng là hai mảnh thân cây khoét rỗng ghép chôn đứng. Trong thân cây có hộp Xá Lị.. Trụ gỗ ghép chôn chính tâm lòng tháp, cao 1,37m, lòng trụ chứa than củi màu đen, xốp. Hộp Xá Lị bên ngoài là  một chiếc hộp chữ nhật bằng đồng kích thước dài 12cm, rộng 8cm, cao 8cm.Hộp để trơn không có trang trí.
 Bên trong là chiếc hộp bằng kim loại màu vàng hình chữ nhật. Kích thước dài 8cm, rộng 5cm, cao 5,5cm. Hộp có cấu trúc hai phần: phần nắp uốn cong hình mui luyện, gờ nắp chờm khỏi thân hộp. Mặt nắp có trang trí  dải hoa văn 6 cánh nở xòe đều bố trí theo khung hình chữ nhật. Phần dưới thân hộp trang trí băng hoa sen kết dải thành diềm quanh thân hộp. Hoa sen thể hiện nhìn nghiêng với 3 cánh, các bông hoa nối tiếp nhau. Chân hộp có một đường gờ rỗng.. Trong hộp có 02 viên Xá Lị hình khối tròn, màu trắng, to bằng hòn bi ve lẫn trong tro và những mảnh gạo cháy (2).
(1)Theo Nguyễn mạnh Cường: Kích thước bệ gạch này hình chữ nhật dài 0,7m, rộng 0,4m cao 0,8m, Theo chúng tôi cấu trúc lòng tháp hình gần vuông thì cấu trúc bệ thờ hình hộp vuông hợp lý hơn. Tham khảo Nguyễn Mạnh Cường: Hộp xá Lị trong lòng tháp Nhạn. T/C KCH số 2-2001 tr 43-50. (2) Sau này theo Nguyễn mạnh Cường trong hộp “ có hai nửa vòng tròn màu trắng đục, trong và mỏng như võ trứng. Chắc hẳn hai nửa mảnh vòng tròn này là từ một cục tròn bị vỡ ra làm đôi”.
Niên đại của Tháp Nhạn được xác định vào khoảng từ cuối Lục triều đến Tùy Đường. Sau này được tác giả xếp vào thế kỷ VII (1).
 Căn cứ vào quy mô kiến trúc, hiện vật thu được các tác giả cho rằng đây là một ngôi tháp có quy mô lớn, một tụ điểm của Phật giáo ở miền Trung và có niên đại sớm nhất trong các kiến trúc tháp phật giáo được biết đến và tổ chức khai quật khảo cổ học. Đặc biệt việc phát hiện ra hộp Xá Lị trong lòng tháp được xác định là lần đầu tiên tìm thấy “trong một phế tích tháp Phật giáo ở Nghệ An”, được đánh giá “ việc tìm thấy một cây tháp Xá lị thời Tùy Đường- mà tháp thì luôn ở bên cạnh ngôi chùa- nơi xa lưu vực sông Hồng( ngày nay cách Hà Nội gần 300km, chứng tỏ bấy giờ ảnh hưởng của Phật giáo đã lan rộng khắp đất nước này”(2)
2.Truyền thống Phật giáo với các mối liên quan.
2.1 Truyền thống Phật giáo.
Trong lịch sử Việt Nam đã có những ghi chép về Xá Lị nhà Phật. Theo Đại Việt sử ký toàn thư cho biết “ Năm 1015 Sư chùa Tề Thánh huyện Thái Bình dâng hòm quý đựng Xá Lị....N¨m 1034... S­ H­u ë chïa Ph¸p V©n ch©u Cæ Ph¸p t©u r»ng trong chïa Êy ph¸t ra mÊy luång ¸nh s¸ng, theo chç ¸nh s¸ng Êy ®µo xuèng ®­îc mét c¸i hßm b»ng ®¸, bªn trong cã c¸i hßm b»ng b¹c, trong hßm b¹c l¹i cã hßm b»ng vµng, trong hßm vµng cã b×nh l­u ly, trong b×nh ®ùng x¸ lþ” ( 3). Chùa Pháp Vân( chùa Dâu) là ngôi cổ tự tại trung tâm Luy Lâu( Bắc Ninh), việc phát hiện ra Xá Lị ở đây cho thấy Xá Lị phải có trước năm 1034.
(1)- Tham khảo thêm:Trần Anh Dũng & Nguyễn Mạnh Cường: Tháp Nhạn ở Nghệ Tĩnh qua hai lần khai quật. T/C KCH số  3-1987 tr 69 -83.
- Tham khảo Nguyễn Mạnh Cường: Hộp xá Lị trong lòng tháp Nhạn. T/C KCH số 2-2001 tr 43-50
(2) Hà Văn Tấn, Nguyễn văn Kự, Phạm Ngọc Long: Chùa Việt Nam. Phần I Chùa Việt Nam: Chùa Việt Nam một cái nhìn chung,  mục Chùa Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.Nxb Thế giới. Hà Nội 2009;  tr 15
(3) Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb KHXH. Hà Nội 2004 Tập I tr 257
Theo văn bia tại chân Tháp Hòa Phong ( chùa Dâu) có niên đại 1738 cho biết “ Xưa kia vủa Tùy Cao Đế sai quan lệnh họ Lưu mang Xá Lị đến Giao Châu đặt. Khi đến châu Giao một vị Pháp Hiền đại sư đã chỉ cho Lưu khu đất  trước đến Bà Dâu là danh tiếng, dựng tháp ở đây để tiếng thơm muôn thưở”. Theo tài liệu này cho biết Lưu Phương có đem  5 hòm Xá Lị sang Giao Chỉ để dựng bảo tháp, thì 01 hòm ở chùa Dâu, 01 hòm chùa Tường Khánh( Nam Định); 01 hòm ở châu Hoan, 01 hòm ở châu Ái và 01 hòm ở Châu Phong.(1). Hộp Xá Lị tìm được tại Nhạn Tháp có phải là hộp mà Lưu Phương đem sang đặt ở châu Hoan.Tài liệu này có 2 vấn đề.
-         Nhân vật lịch sử:
- Thiền sư Pháp Hiền( ? -626) là thế hệ thứ nhất của  Thiền Phái Ty ni đa lưu chi thọ giới theo Đại Sư Quán Duyên ở chùa Pháp Vân sau tu ở chùa Chúng Thiện, núi Thiên Phúc( Tiên Du – Bắc Ninh) được Tùy Cao Tổ “ sai sứ đem Xá Lị phật và 5 hòm sắc điệp sang ban cho sư để xây tháp cúng dàng. Sư bèn chia Xá Lị cho chùa Pháp vân ( Luy Lâu) và các chùa có tiếng ở các châu Phong, Hoan, Trường, Ái để dựng tháp thờ ”(2)
- Lưu Phương là viên tướng xâm lược nước ta năm 602. Năm 603 Lưu Phương tiêu diệt nước Vạn Xuân của Lý Phật Tử. Năm 605 được vua Tùy phong là Hoan châu đạo hành quân tổng quản đi đánh Lâm Ấp, một quốc gia độc lập của người Chăm. Năm này Lưu Phương ốm chết dọc đường. Như vậy Lưu Phương ở nước ta từ năm 602 – 605.
- Về địa danh:
Đất Nghệ An nhà Tùy  thuộc quận Nhật Nam. Nhà Đường năm 622 đổi thành Hoan Châu, sau đổi là Diễn Châu (3)
( 1) Nguyễn Mạnh Cường: Chùa Dâu – Tứ Pháp và hệ thống các chùa tứ Pháp. NXB KHXH. Hà Nội 2000, tr 55
(2) Thiền uyển tập anh. NXB văn học.Hà Nội 1990 tr 170
(3) Tham khảo thêm: Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí. NXB Giáo Dục. Hà Nội 2008.Đào Duy Anh:  Đất nước Việt nam qua các đời. NXB Thuận Hóa 1996
 Như vậy có khả năng hộp Xá Lị ở Nhạn tháp có mặt vào đầu thế kỷ VII là hợp lý và có niên đại cùng với Xá Lị chùa Dâu mà sử sách ghi lại.
Xá Lị là một khái niệm chỉ phần tinh cốt còn lại của Phật sau khi hỏa thiêu. Theo Từ điển Phật học Xá Lị “ chỉ chung cho những gì còn xót lại sau khi thiêu thân Phật- Thích Ca hoặc các bậc đắc đạo, thường được thờ trong các tháp hay chùa chiền”. Ở Việt Nam sau khi Phật Hoàng Trần Nhân Tông tổ đệ nhất phái trúc Lâm mất ( 1308) “ Pháp Loa thiêu ( xác Thượng Hoàng) được hơn ba ngàn hạt xá ly mang về chùa Tư Phúc ở Kinh sư”....Năm 1310 “ xá ly thì cất ở bảo tháp am Ngoạ Vân” ( Đông Triều – Quảng Ninh). Xá Lị chỉ được gìn giữ ở những trung tâm Phật giáo quan trọng và danh tiếng.Việc tìm thấy Xá Lị ở Tháp Nhạn ( Nghệ An) có thể thấy đây là một trung tâm Phật giáo lớn, sớm, quan trọng trong các trung tâm Phật giáo 10 thế kỷ đầu công nguyên ở Việt Nam.
2.2 Mối liên quan.
Trong những tôn giáo ảnh hưởng đến văn hóa nước ta trong lịch sử, những xá Lị của Phật giáo chôn trong các lòng chùa tháp, cũng như những hiện vật thiêng chôn trong các lòng tháp Champa là một hiện tượng khá tương đồng.
 Các cuộc khai quật các phế tích kiến trúc tháp Champa tại Đại Hữu ( 1927); Trung Quán ( 1928) tại Quảng Bình. Khánh Vân ( 1998) tại Quảng Ngãi. Cát Tiên ( 1999 -2004) tại Lâm Đồng, hay các di tích thuộc văn hóa Óc Eo như Gò Tháp ( Kiên Giang), Gò Xoài ( Đồng Tháp) vv... đã cho thấy trong các lòng tháp được xử lý chôn theo các vật linh là các lá vàng  khắc tạc hình ảnh các vị thần, linh thú, hoa sen vv... những biểu tượng của Ấn Độ  giáo. Sự tương đồng ấy thể hiện qua cấu trúc lòng tháp là những khối hộp bình đồ hình thang ngược, các vật linh được chôn giữa lòng tháp là hộp thiêng, xung quanh là những vật thiêng. Để gìn giữ những vật thiêng, mặt nền thường được xử lý kỹ thuật khá cẩn thận. Vật liệu là sét, cuội trộn lẫn đầm lèn chặt bảo vệ. Nối thông những vật linh chôn phía dưới là những cột thiêng. Các di tích Champa cột thiêng ( trụ thiêng) được xây bằng gạch thành trụ gạch thẳng đứng từ lòng tháp vươn lên mặt nền thì ở Tháp Nhạn thể hiện bằng cột gỗ. Đây chính là biểu tượng của trụ thiêng theo giáo lý tôn giáo. Điểm chung này xuất phát từ ảnh hưởng của Văn hóa Ấn Độ, nhưng mỗi tộc người có thể hiện khác nhau, phù hợp với đặc điểm và truyền thống văn hóa tâm lý tộc người. Cột gỗ trụ thiêng tại Tháp Nhạn gợi nhớ về truyền thống văn hóa dân tộc như GS Hà Văn Tấn viết “ Việc đặt hộp Xá Lị vào trong thân cây khoét rỗng cũng gợi chúng ta nhớ đến tục chôn người chết trong những quan tài khoét bằng thân cây trong thời kỳ văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam. Các tháp Xá Lị vẫn được coi là tháp mộ, khác với các tháp kỷ niệm. Phải chăng ở đây, có sự tiếp hợp giữa Phật giáo với những truyền thống bản địa lâu đời ?” (1)
Được xây dựng trên địa bàn văn hóa Đông Sơn phát triển rực rỡ, tiếp thu ảnh hưởng văn hóa Phật giáo, di tích Tháp Nhạn có thể coi là một trung tâm phật giáo lớn xa nhất về phương nam của dân tộc Việt X thế kỷ đầu công nguyên. Ngoài yếu tố Phật giáo, di tích còn để lại dấu ấn có mối liên quan đến các di tích văn hóa Champa phía Nam  cùng chịu ảnh hưởng từ văn hóa Ấn Độ. Nếu theo tài liệu thư tịch và truyền thuyết địa phương, Nghệ An không chỉ có Tháp Nhạn mà còn nhiều di tích Phật giáo khác có giá trị trong văn hóa Việt Nam cần được tiếp tục  khảo sát, khai quật,  góp phàn tìm về cội nguồn văn hóa Xứ Nghệ nói riêng và văn hóa dân tộc trong lịch sử nói chung.
Những dấu tích của Phật giáo Nghệ An xưa nay còn lại không nhiều, nhiều địa điểm xưa  chỉ còn dấu tích, những đó là tiền đề để hưng vong tinh thần Phật giáo với văn hóa dân tộc. Những dấu tích Phật giáo đó hiện còn đúng như tinh thần Phật giáo mà lời thơ Thiền sư Mãn Giác( 1052 -1096) gửi lại:
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Dịch:
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai./.
(1) Hà Văn Tấn ... đã dẫn