Thứ Ba, 18 tháng 8, 2015

MỘT VÀI NHẬN THỨC VỀ KHẢO CỔ HỌC VĂN HÓA ÓC EO
   Văn hóa Óc Eo trên địa bàn Nam Bộ là một nền văn hóa lớn, từng tỏa sáng trong lịch sử và có nhiều đóng góp vào nền văn hóa vùng Đông nam á nói chung và văn hóa dân tộc Việt Nam trong lịch sử nói riêng. Văn hóa hậu Óc Eo, sự kế thừa của văn hóa Óc Eo trên địa bàn Nam Bộ là một vấn đề khoa học được quan tâm khi nghiên cứu lịch sử phát triển và tồn tại của nền văn hóa này. Gần một thế kỷ phát hiện và nghiên cứu nền văn hóa Óc Eo, cho đến nay dù còn nhiều vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng những phát hiện về nền văn hóa này đã khẳng định giá trị vô giá
của nền văn hóa  để lại cho nhân loại và dân tộc. Chính vì thế việc việc nghiên cứu văn hóa hậu óc Eo trên địa bàn Nam Bộ được nhiều ngành khoa học  quan tâm, trong đó có khảo cổ học tìm về những di tích của thời kỳ này để lại, cùng những giá trị văn hóa của một nền văn minh đã từng tỏa sáng.  Với những kết quả tìm được qua điều tra, khai quật khảo cổ học, bước đầu cho thấy diện mạo di tích đã từng tồn tại trên vùng đất Nam Bộ để lại dấu tích cho đến ngày nay
 1. Khái niệm về lịch sử
Cho đến nay khi nghiên cứu  vùng đất phương nam, tài liệu lịch sử cho biết về một nhà nước quốc hiệu là Phù Nam.Theo Tấn thư “ Nước Phù Nam cách Lâm Ấp về phía Tây hơn ba nghìn lý, ở trong vùng vịnh biển lớn, đất rộng hơn ba nghìn lý”.Nam Tề thư chép “ Nước Phù Nam ở trong vùng dân Man, phía tây của biển lớn, ở miền nam của Nhật Nam, dài rộng hơn 3.000 lý. Lương thư ghi chép cụ thể “  Nước Phù Nam ở phía nam quận Nhật Nam, trong vịnh lớn, phía tây của biển, cách Nhật Nam có đến 7.000 lý, cách Lâm Ấp ở phía tây – nam đến hơn 3.000 lý, đất trũng ẩm thấp, nhưng bằng phẳng rộng rãi”. Truyền thuyết về sự hình thành vương quốc Phù Nam, Tấn thư cho biết “ Vua nước đó vốn là người con gái, tên là Liễu Diệp. Thời đó, có người nước ngoài là Hỗn Hội, thờ tiên thần, nằm mộng thấy thần ban cho cây cung và dạy là phải đi thuyền lớn ra biển…thuyền lênh đênh trên biển tới ấp ngoài của nước Phù Nam. Liễu Diệp đưa nhiều người ra chống lại. Hỗn Hội dương cung bắn, Liễu Diệp sợ hãi xin hàng. Hỗn Hội bèn lấy làm vợ và chiếm cứ đất nước..”.. Nam Tề thư cho biết “ người nước ngoài cõi tên là Hỗn Điền đến miếu thờ thần nhặt được cây cung dưới gốc cây…Hỗn Điền lấy Liễu Diệp làm vợ…cai trị nước đó, con cháu truyền cho nhau”, đóng đô ở  Vyadapura. Hỗn Điền là một Balamôn  Ấn Độ khi cai trị vùng đất này đã đưa tôn giáo văn hoá  Ấn Độ  gia nhập vào vùng đất mới.Vào thế kỷ III đoàn sứ giả đầu tiên của Trung Quốc do Khang Thái và Chu Ứng dẫn đầu đã đến nước này và được vua trị vì Phạm Tầm đón tiếp long trọng và những năm 268, 286 sứ giả Phù Nam đã có mặt tại Trung Quốc. Vua nước Phù Nam được vua Trung Quốc tấn phong là Phù Nam đại vương. Chính vì thế khi nghiên cứu vùng đất này được các học giả nghiên cứu cho rằng danh tính tên quốc gia ấy là Phù Nam. Vương quốc Phù Nam phát triển, thời vua Phạm Sư Man “ Ông cho đóng tàu to vượt biển lớn tiến đánh Khuất Đô Côn, Cửu Trĩ, Điển Tôn… cả bọn hơn 10 nước . Mở rộng đất đai hơn 5.000- 6.000 lý” trở thành một cường quốc ở Đông Nam Á thời bấy giờ. Vào đầu thế kỷ VII vương quốc Phù Nam dần suy yếu và bị  Chân Lạp một thuộc quốc nổi lên  thôn tính “ Vương quốc Chân Lạp nằm ở phía tây nam nước Lâm ấp, trước kia vốn là một thuộc quốc của Phù Nam… Vua Chân Lạp thuộc dòng dõi Kơxatơria tên là Chitơrasena… các đời vua trước đã không ngừng mở rộng thế lực của Chân Lạp và cuối cùng đã đã đánh bại và chinh phục Phù Nam…”. Vương quốc Chân Lạp cường thịnh và mở rộng lãnh thổ, sai sứ sang triều cống Trung Quốc và có mối quan hệ thân thuộc với vương quốc Champa. Theo Đường thư vào đầu thế kỷ thứ VIII tình hình nội bộ Chân Lạp bị chia rẽ, hình thành nên hai quốc gia: Lục Chân Lạp ở vùng đất cao và Thuỷ Chân Lạp ở vùng đất thấp “ Sau đời Thần Long (năm 705 – 707) chia làm hai, nửa phía bắc nhiều núi gọi là Lục Chân Lạp; nửa phía nam giáp biển nhiều đầm gọi là Thuỷ Chân Lạp”.  Số phận hai vương quốc này đầy biến động. Lục Chân Lạp “ duy trì nền độc lập và thống nhất của mình cho đến giữa thế kỷ X thì bị các vua nước Campuchia sau này thôn tính”. Thuỷ Chân Lạp “ bị chia cắt thành nhiều công quốc độc lập, bán độc lập” (1) “ thời kỳ này chia thành nhiều thành bang và vẫn liên minh với nhau để chống lại Lục Chân Lạp”. Theo bút ký của Chu Đạt Quan, viên sứ thần  Trung Quốc khi đến Chân Lạp cho biết sau khi Phù Nam tan rã, vương triều Chân Lạp kế thừa, có đến 9 tiểu quốc là chư hầu chịu ảnh hưởng của Chân Lạp và nước nào cũng có điện tháp thờ.(2)
.Nhìn chung tư liệu cho biết   buổi đầu lịch sử vùng đất phương nam nổi lên rõ nét về sự xuất hiện của hai nhà nước kế thừa nhau theo dòng chảy lịch sử: Phù Nam và Chân Lạp. Vương quốc Phù nam manh nha xuất hiện trước khi có sự gia nhập của văn hóa tôn giáo Ấn Độ đến vùng đất Về  con người, đời sống của cư dân vùng đất này có thể tóm tắt qua nguồn sử liệu Trung Hoa. Tấn thư viết “ Người đều đen đúa xấu xí, búi tóc, thân trần, đi chân đất, tính chất phác, thẳng thắn, không trộm cướp, theo nghề cày cấy trồng trọt, một năm trồng thu hoạch 3 năm…bát đĩa phần nhiều bằng bạc…. Người Phù Nam đúc vòng bằng vàng, bát đĩa bằng bạc, đốn gỗ làm nhà….Phù Nam cũng có sách vở,  có nhà lưu giữ sách vở, tài liệu. Văn tự giống chữ người Hồ. Ma chay hôn nhân đại khái cũng giống
như Lâm Ấp..”. Nam Tề thư cho biết “ Người Phù Nam thông minh, lanh lợi và giảo quyệt, đánh phá các thành ấp lân cận, bắt dân không phục làm nô tỳ…. Tục nước đó thờ thiên thần”. Lương thư cho biết “phong tục thờ cúng thiên thần, lấy đồng đúc tượng, tượng hai mặt bốn tay, bốn mặt tám tay, tay bồng đứa bé, chim, hình mặt trăng, mặt trời…. Vua Phù Nam có khả năng viết sách chữ nước Thiên Trúc, sách có khoảng 3000 lời nói về nguyên do kiếp trước kiếp sau cuả vua..”. Như vậy có thể thấy Phù Nam – Chân Lạp là những quốc gia chịu ảnh hưởng của văn hoá, tôn giáo Ấn Độ khá sâu sắc trên nhiều lĩnh vực
Lược qua đôi nét về lịch sử cho thấy vùng đất phương nam theo tiến trình phát triển có hai giai đoạn chính: vương quốc Phù Nam và vương quốc Chân Lạp.
-         Vương quốc Phù Nam thế kỷ II – VII
-         Vương quốc Chân Lạp thế kỷ VII – VIII.
Bản đồ  Lục Chân lạp và Thủy Chân Lạp trong lịch sử
Riêng nhà nước  Chân Lạp sau thế kỷ VIII lại chia làm hai: Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp. Nếu Lục Chân Lạp phát triển có sự thống nhất sau này phát triển lên thành văn hóa Khmer thì Thủy Chân Lạp  lại phân tán tản quyền và sau này một phần hội nhập với văn hóa Khmer; một phần hội nhập và trở thành một bộ phận lãnh thổ của  dân tộc Việt Nam.
Về văn hóa, có thể thấy cũng như nhiều quốc gia khác ở Đông Nam á, vùng đất này sớm chịu ảnh hưởng của văn hóa, tôn giáo  Ấn Độ, kết hợp với tín ngưỡng bản địa hình thành nên bản sắc văn hóa của riêng mình. Từ ảnh hưởng ban đầucủa văn hóa Ấn Độ hội nhập với tín ngưỡng bản địa tạo nên văn hóa của Phù Nam làm nền tảng, sau này những vương quốc kế tiếp như Chân Lạp, Lục Chân Lạp, Thủy Chân Lạp được kế thừa tiếp nối tạo nên hệ thống văn hóa có tầng nền chung, nhưng mỗi vùng có những sắc thái riêng mang đậm dấu ấn của cư dân sáng tạo nên theo nhận thức tôn giáo và thẩm mỹ của tộc người sáng tạo ra. Cho đến nay,  khi nghiên cứu lịch sử vùng đất này, ngoài tư liệu lịch sử; dựa vào tài liệu thu được qua các cuộc khai quật khảo cổ, các nhà nghiên cứu thường cho rằng văn hoá Óc Eo gắn liền với sự hình thành và phát triển của nhà nước Phù Nam và Chân Lạp. Khái niệm thời gian, văn hóa Óc Eo kéo dài suốt thời kỳ lịch sử Phù Nam – Chân Lạp; khái niệm không gian gắn với vùng đất nam Bộ ngày nay mà trung tâm là Óc Eo. Các nhà nghiên cứu đã chia các di tích tìm được thành các giai đoạn văn hóa khác nhau:
- Giai đoạn tiền Óc Eo : các di tích có niên đại trước và SCN thế kỷ I – III, tương ứng với thời kỳ xây dựng và hình thành nhà nước sơ khai
- Giai đoạn văn hóa Óc Eo: các di tích có niên đại thế kỷ có niên đại thế kỷ III – VII; tương ứng với giai đoạn  vương quốc Phù Nam
-  Giai đoạn hậu văn hóa Óc Eo  sau thế kỷ VII; tương ứng với vương quốc Chân Lạp hay Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp sau này.
Việc phân chia các giai đoạn văn hóa này chỉ có khái niệm tương đối phù hợp với tư liệu lịch sử về các nhà nước thời kỳ lịch sử trên vùng đất phương nam.. Chính vì thế khi lập bản đồ phân bố các di tích ở đây chúng tôi chỉ lựa chọn các di tích có niên đại sau thế kỷ VII; tương ứng với vương quốc Chân Lạp hay Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp sau này. Nhưng thực tế các tài liệu của các di tích có liên quan đến các quốc gia trong thời kỳ lịch sử này hay không đó lại là vấn đề cần quan tâm tìm hiểu
Một nhóm di tích mới phát hiện, khai quật  gần đây tại Cát Tiên ( Lâm Đồng), mặc dù còn nhiều ý kiến thảo luận về nguồn gốc, chủ nhân và đặc trưng văn hóa, nhưng dựa vào không gian phát hiện trên địa bàn vùng đất phía nam; văn hóa có cùng nguồn gốc ảnh hưởng từ văn hóa, tôn giáo Ấn Độ và niên đại. Một số nhà nghiên cứu cho rằng các di tích này thuộc Thủy Chân Lạp. Một số ý kiến cho rằng đó là một tiểu quốc độc lập có bản sắc văn hóa riêng; hay cho rằng là một phần của hậu văn hóa Óc Eo vv... Dù còn nhiều vấn đề  tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ, nhưng dựa vào di tích, di vật tìm được qua đối chiếu so sánh, chúng tôi thấy có nhiều nét tương đồng trên một nền cảnh văn hóa chung vùng đất, và mạnh dạn  bước đầu đưa nhóm di tích này vào các di tích cùng thuộc văn hóa ảnh hưởng từ văn hóa, tôn giáo Ấn Độ trên vùng đất phía nam gắn với đồng bằng Nam Bộ?
II. Lịch sử nghiên cứu văn hóa Óc Eo
1.Đôi nét về những cuộc khai quật khảo cổ học trước năm 1975
Tư liệu ghi chép về di tích, di vật liên quan đến nền văn hóa Óc Eo được biết đến sớm nhất vào đầu thế kỷ 19. Trong cuốn“ Gia Định thành thông chí” ghi chép về những viên gạch ngói cỡ lớn, những lá vàng tìm được tại di tích chùa Gò Cây Mai với những hình vẽ xa lạ “ yêu cổ cưỡi voi”. Nhưng những người khai phá vùng đất này chư hề biết đến có một nền văn hóa cổ nơi họ cư trú. Nửa cuối thế kỷ 19 với sự tham gia nghiên cứu của các học giả thực dân, diện mạo nền văn hóa cổ dần được biết đến, được công bố trên các tập san khoa học (BEFEO I – XLI). Đến đầu thế kỷ 20 có 350 địa điểm có di tích, di vật được biết đến công bố. Nhưng những di tích di vật này chỉ giới hạn trong các cuộc điều tra khảo sát. Nghiên cứu khảo cổ học văn hóa Óc Eo thực sự được tiến hành với  các cuộc điều tra khai quật khảo cổ học của L. Malleret tiến hành. Từ năm 1937 – 1944 .L. Malleret  đã tiến hành điều tra khảo sát nhiều địa điểm cư trú trên địa bàn Nam Bộ và tiến hành khai quật khảo cổ học tại 5 địa điểm: Gò Cây Thị; Gò óc Eo; Giồng Cát và đào thám sát nhiều hố trên cánh đồng óc Eo, sườn núi Ba Thê. Kết quả nghiên cứu được công bố trong cuốn “ L’ Archeologie du delta du MesKong” trong đó 3 tập đầu ( 1959 -1962) công bố 136 địa điểm ở miền Tây sông Hậu và tập cuối (1963) công bố 167 địa điểm di tích ở hạ lưu sông Tiền và Đông Nam Bộ. Dựa vào di tích, di vật tìm được vô cùng phong phú với nhiều loại hình, qua phân tích nghiên cứu,  theo L. Malleret  nền văn hóa này có hai giai đoạn là thời kỳ tiền Khmer thế kỷ II – VI AD tương ứng với lịch sử tồn tại nhà nước cổ đại Phù Nam và thời kỳ tiền Ang Ko và Chân Lạp thế kỷ VII về sau. Như vậy những người nghiên cứu đầu tiên dựa vào di tích di vật tìm được đã cho thấy hai giai đoạn phát triển của nền văn hóa này mà mốc của nó là trước và sau thế kỷ VII gắn liền với sự tồn tại của nhà nước cổ Phù Nam trong lịch sử
2.Đôi nét về những cuộc khai quật khảo cổ học sau năm 1975
Do điều kiện biến động xã hội, sau năm 1975 những cuộc nghiên cứu khảo cổ học về văn hóa Óc Eo và hậu  Óc Eo mới có điều kiện thực hiện được. Kế thừa thành tựu nghiên cứu của giai đoạn trước, mở rộng phạm vi nghiên cứu, sau năm 1975 các cuộc điều tra, khai quật được tiến hành với nhiều cơ quan nghiên cứu khảo cổ học tham gia: Trung tâm nghiên cứu KCH phía Nam thuộc Viện Khoa học xã hội; Viện khảo cổ học, Trường Đại học khoa học xã hội và Nhân văn TP HCM; Bảo tàng các địa phương có loại hình di tích này. Theo thống kê sau năm 1975 có 189 di tích văn hóa Óc Eo được nghiên cứu trong đó có trên 20 cuộc khai quật khảo cổ học, hàng trăm các cuộc đào thám sát. Phân bố các di tích trên các địa bàn sau:
Bảng thống kê các di tích
Số TT
Tên tỉnh
Số lượng
Ghi chú
1
An Giang
14

2
Kiện Giang
5

3
Đồng Tháp
7

4
Trà Vinh
9

5
Tiền Giang
6

6
Long An
107

 7
Đồng Nai
20

8
Tây Ninh
5

9
Lâm Đồng
4

10
 Bạc Liêu
1

11
Cần Thơ
4

12
Hậu Giang
3

13
Vĩnh long
1

14
TP HCM
2

15
Sóc Trăng
1

Tổng cộng

 Kết quả nghiên cứu được công bố trong các ấn phẩm chuyên khảo :  văn hóa óc Eo và các văn hóa cổ ở đồng bằng sông Cửu Long (1984);  Văn hóa óc Eo những khám phá mới (1995), một số vấn đề khảo cổ học ở miền Nam Việt Nam tập I – II (1997 -1008) hay Văn hóa óc Eo – Nhận thức và giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị di tích (2009) hay  trong các luận án cao học, tiến sĩ, các tạp chí chuyên ngành, những phát hiện mới về KCH hàng năm. Những phát hiện này đã mở  và định hướng cho việc nghiên cứu toàn diện đầy đủ và góp phần hiểu sâu sắc hơn về nền văn hóa này trong lịch sử. Trong quá trình khai quật nghiên cứu với kết quả và di vật tìm được các nhà nghiên cứu cho rằng có hai giai đoạn phát triển của văn hóa: giai đoạn Óc Eo và hậu Óc Eo. Giai đoạn óc Eo trước thế kỷ VII và hậu óc Eo sau thế kỷ VII mà lấy sự hưng vong của nhà nước cổ Phù Nam làm mốc. Sự phân kỳ này dựa vào địa tầng; đặc trưng riêng của di tích, di vật thu được qua khai quật các di tích và có thể trên cùng một di tích với nhiều thời đại khác nhau, kế thừa nhau trên một địa điểm
III.  Một số kết quả khai quật khảo cổ học những  di tích  Óc Eo
1 Di tích Gò Thành
Di tích gồm di chỉ cư trú, mộ táng và phế tích kiến trúc nằm trên địa bàn ấp Tân Thành xã Tân Thuận, huyện Chợ Gạo ( Tiền Giang). Phát hiện năm 1979, Di tích nằm trên một Giồng đất lớn dài 200m, rộng 150m, địa hình cao hơn 3m so với mực nước biển . Năm 1987 Trung tâm khảo cổ học khảo sát cho thấy tại đây có nhiều dấu tích kiến trúc, hiện vật liên quan. Đây là cơ sở dứ liệu ban đầu phục vụ cho công tác khai quật nghiên cứu giai đoạn sau.Năm 1988 -1989 trung tâm tiến hành tổ chức khai quật. Kết quả cho thấy tại di tích còn lại hệ thống nền của kiến trúc bằng gạch. Có 3 nền gạch dạng căn phòng hình tứ giác, 01 kiến trúc có mặt bằng hình chữ nhật, hướng bắc – nam Ngoài ra ở đây còn hệ thống mộ táng khá phong phú. Hiện vật thu được 271 hiện vật trong đó có196 hiện vật chất liệu vàng, 06 chất liệu đồng, 22 hiện vật đá, 47 hiện vật đất nung bao gồm các bệ thờ Yony, tượng Visnu, thân tượng thần; các lá vàng có trang trí thể hiện nội dung tôn giáo.. 
Niên đại từ thế kỷ IV đến thế kỷ VIII( 14 C  từ 365 AD đến 740 AD-  có 2 mẫu hiện vật  14 C  cho niên đại thế kỷ VIII (Mộ M6 – M9) ( Nguyễn Thị Đâu 1986- Đào Linh Côn 1989)
.2 Di tích Gò Cây Thị
Di tích Gò Cây Thị nằm tại tọa độ 10013’39” vĩ bắc; 105009’49” kinh đông thuộc cánh đồng Óc Eo địa phận xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn (An Giang). Di tích được phát hiện năm 1942 và khai quật lần đầu vào năm 1944 do .L. Malleret  chủ trì . Trên Gò cao có hai cây Thị mọc nên có tên gọi này.Cuộc khai quật tìm được dấu vết kiến trúc móng của phần tiền điện và phần chính điện. Phần tiền điện tìm được hai bậc tam cấp hai bên. Chính điện tìm được dấu vết những ô nhỏ, chính giữa là 4 căn phòng lớn cùng giếng nước. Năm 1999 trung tâm khảo cổ học tiến hành cuộc khai quật tại đây làm rõ kiến trúc chính này có quy mô lớn,  gồm 35 đường biên gạch tạo nên bình đồ hoàn chỉnh của kiến trúc gồm 3 phần: tiền điện, chính điện và sân nối giữa tiền điện và chính điện. Tiền điện nằm ở phía đông,mặt bằng hình chữ nhật, mặt quay về hướng đông. Kích thước dài 16,8m, rộng 7,4m kể cả phần bậc thềm nhô ra. Chính điện ở phía tây, bình đồ hình chữ nhật hướng bắc – nam dài 22m, rộng 16,04m. Tiền điện xây cách chính điện 1,1m, nối liền với chính điện bởi một sàn rộng 1,1m, dài 10,62m. Toàn bộ kiến trúc được xây trên lớp dưới cùng là  nền đá kích thước lớn (đường kính 0,4m – 0,5m); lớp trên là nền đất sét trộn đá kích thước nhỏ, gạch vỡ đầm lèn chặt. Trên xây móng kiến trúc còn lại 11 lớp gạch tạo nên khá vững chắc. Giữa chính điện còn lại dấu vết  móng kiến trúc 4 ngăn hình chữ nhật, kích thước dài 4m, rộng 2,8m. Dấu vết kiến trúc để lại  được những người khai quật cho rằng  đây là kiến trúc cung đình mang tính tôn giáo. Theo chúng tôi đây là dấu tích một đền thờ tôn giáo.. Niên đại di tích kéo dài từ thế kỷ II đến thế kỷ VI – VII.( Võ Sĩ Khải- Đào Linh Côn -2004)
3.Di tích Gò Cây Thị B
Di tích Gò Cây Thị B nằm trên địa bàn xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn (An Giang). Di tích nằm  trong nhóm di tích óc Eo – Ba Thê, cách di tích Gò Cây Thị 22m về phía bắc. Di tích nằm ở đầu phía tây – tây  bắc, trên diện tích khoảng 300m2, cao khoảng 1,5m so với mặt bằng xung quanh. Di tích được  phát hiện năm 1944 cùng với các di tích khác. Di tích Gò Cây Thị B  được trung tâm khảo cổ học thám sát vào các năm 1983 -1984 với các dấu tích nhiều hàng gạch móng xây thẳng đứng, bề mặt gò có 2 -3 ô hình tứ giác Năm 1999 di tích được tiến hành khai quật  làm xuất lộ móng kiến trúc nằm sâu trong lòng đất từ 0,1m đến 1,3m. Kiến trúc có bình đồ hình chữ nhật hướng đông – tây dài 16,7m, rộng 11,65m, được xây trên nền đất sét khá vững chắc.  Cờu trúc gồm hai vòng tường xây bằng chất liệu gạch đá vây quanh nền hình chữ nhật đắp bằng đất cát. Vòng tường bên trong hìnhg chữ nhật xây bằng đá hoa cương, đá thạch anh với cát trắng kết dính, cạnh đông tây dài 10,8m, rộng bắc nam 6,7m Bờ tường bắc nam còn lại cao 1,1m, xây gạch dày 0,8m – 1,0m, phía trên xây bằng đá với cát trắng kết dính cao 0,4m. Tường đông và tây cao 0,45m, dày 1,0m xây bằng đá, dưới đá màu xám, trên đá màu trắng. Dưới chân tường là hệ thống móng xếp bằng đá hoa cương vững chắc. Các khối đá xây móng có kích thước khá đều nhau 0,3m x0,25m x0,15m xây thẳng hàng tạo nên móng dày 1,1m – 1,2m. Vòng tường ngoài được xây gạch, các góc bẻ nhiều lớp vuông vức dài 16,35m, rộng 10,4mTường phía nam còn lại cao nhất 0,7m gồm 4- 11 lớp gạch xây xếp tạo nên, tường dày 0,65m – 0,7m. Trung tâm kiến trúc là một nền đất hình chữ nhật dài 6,7m, rộng 4,4m. Trong lớp đất chưa một số hiện vật liên quan đến kiến trúc. Niên đại TK VI- VII (Niên đại C14 1840 +_ 40)  Đào Linh Côn -2004)
4 Di tích Linh Sơn Nam
Di tích Linh Sơn Nam thuộc khu di tích Óc Eo- Ba Thê, nằm ở sườn phía đông Núi Ba Thê thuộc địa bàn xã Vọng Thê, huyện Thoại sơn (An Giang). Di tích được khảo sát lần đầu vào năm 1879 và nhiều lần sau vào các năm 1912, 1921, 1928,1936, 1938, 1942 và sau cùng là 1944. Di tích là một phế tích kiến trúc lớn, một phức thể gồm nhiều công trình kiến trúc trải rộng trên diện tích 25.000m2 với nhiều sàn gạch, vỉa gạch chạy dài cùng các thành phần kiến trúc như chân tảng, đá, gạch, tượng thờ, từ độ cao 16,5m đến chân núi dày đặc các dấu vết kiến trúc cổ  xuất lộ. Năm 1944 di tích được đào thám sát lần đầu tiên. Sau này từ năm 1979 đến năm 1999 đã được khảo sát đào thám sát đến 8 lần do trung tâm khảo cổ học tiến hành. Năm 1998 - 1999 cuộc khai quật khảo cổ học được thực hiện. Kết quả thám sát  khai quật cho thấy:
- Năm 1993 thám sát tại vị trí phía đông cách chùa Linh Sơn 50m, độ cao ven sườn núi khoảng 10m, kết quả tìm thấy một phần móng của kiến trúc gạch với hai giai đoạn khác nhau. Móng kiến trúc giai đoạn sớm nằm ở độ sâu 0,85m được xây bằng gạch chất lượng cao. Kích thước gạch 0,3m x0,14m x0,07m. Lớp móng kiến trúc giai đoạn sau được xây chồng lên móng kiến trúc cũ. Vật liệu sử dụng là gạch cũ cùng một số gạch sau này chất lượng không đều nhau, độ bền kém hơn gạch cũ. Dấu vết cho thấy đây là móng kiến trúc có quy mô lớn với góc bẻ nhiều lần, sàn rộng chia thành nhiều ngăn. Phân biệt niên đại các lớp kiến trúc này dựa vào các loại hình gốm mịn ở lớp dưới và các di vật ngói lợp, gốm thô các loại hình ở lớp sau. Kết luận cho thấy kiến trúc này được xây dựng khá sớm và được xây dựng tu bổ tôn tạo nhiều lần sau này. Niên đại C14 sớm 70 +(-) 50 AD; niên đại muộn 880 + (-) 50 AD.
- Năm 1998 khai quật tại địa điểm phía nam chùa Linh Sơn, sườn phía đông núi Ba Thê, độ cao khoảng 10m – 16,5m, cuộc khai quật làm xuất lộ dấu vết một kiến trúc có quy mô lớn.. Móng kiến trúc được xây bằng gạch và đá. Mặt bằng kiến trúc hình chữ nhật hướng đông – tây chiều dài 22m, rộng 17m. Trong lòng chia thành nhiều ngăn lớn nhỏ khác nhau có sân trông, hệ thống thoát nước. Kiến trúc này có hai giai đoạn xây dựng. Giai đoạn sớm chỉ còn một số cấu trúc bị sụp đổ được xây thuần gạch có chất lượng tốt( gạch kích thước trung bình 0,3m x0,15m x0,07m). Kiến trúc giai đoạn sau xây kế thừa giai đoạn trước được sử dụng thêm vật liệu đá và tận dụng gạch của giai đoạn trước
DÊu vÕt kiÕn tróc
DÊu vÕt kiÕn tróc
- Cuộc khai quật năm 1999 trên toàn bộ gò Linh Sơn đã cho thấy tầng văn hóa ở đây dày 2m so với đỉnh gò với 6 giai đoạn xây dựng và sử dụng tại địa điểm này. Giai đoạn 1 có độ sâu 2m nằm trên lớp đất sinh thổ, tại đây tìm được mộ chum, trong mộ có chứa xương, hạt chuỗi bằng vàng, mã não. Giai đoạn 2 xuất lộ dấu vết móng kiến trúc nằm ở độ sâu 1,6m đến 2,5m, tường móng kiến trúc rộng 0,8m, được xây gạch có chất lượng cao. Kích thước gạch 0,3m x0,15m x0,07m.Mặt có 2 sàn gạch xây trên nền đất móng được trộn gạch vỡ đầm lèn vững chắc . Giai đoạn 3-4 đánh dấu thờ kỳ xây dựng mới trên nền của kiến trúc cũ. Gạch lớp trước được tái sử dụng lại, xuất hiện vật liệu đá trong xây móng. Cuối giai đoạn 4, tài liệu khai quật cho biết kiến trúc có dấu hiệu hư hỏng. Giai đoạn 5 đánh dấu bằng sự biến mất của một số đoạn móng xây giai đoạn 4, xuất hiện nhiều tường móng mới trên bề mặt kiến trúc nằm ở độ sâu 1,3m đến 0,4m.Những tường móng giai đoạn này khá hoàn chỉnh, kết mối tạo nên mặt bằngd kiến trúc khá rõ Những khối đá kích thước lớn được xây móng các góc cho thấy khả năng công trình kiến trúc phía trên có quy mô lớn.. tại đay còn tìm thấy vật liệu mái: ngói ống, đồ gốm có niên đại khá muộn.Giai đoạn 6 là giai đoạn cuối khi sử dụng kiến trúc trước khi bị sụp đổ, giai đoạn này kiến trúc không có sự thay đổi lớn, chỉ có dấu vết tu bổ, hay bố chí cách sử dụng. Cuộc khai quật làm xuất lộ toàn bộ mặt băng của kiến trúc. Kiến trúc có bình đồ hình chữ nhật hướng đông – tây, cửa mở về hướng đông dài 22,5m, rộng 17,5m, gồm 36 tường móng gạch và đá tạo thành nhiều cấu trúc bên trong gồm sàn nền, sân, hành lang, hệ thống thoát nước vv..Niên đại C14 kéo dài từ thế kỷ I đến thế kỷ IX ( 880 + (-) 50 AD. (Võ Sĩ Khải  2004)
5. Di tích Lưu Cừ
Di tích được xây dựng trên địa thế vùng đất Giồng cao từ 3,6m – 4,0m so với mực nước biển, cao hơn mặt ruộng xung quanh từ 1,4m – 2,0m thuộc địa bàn ấp Lưu Cừ xã Lưu Nghiệp Anh, huyền Trà Cú ( Trà Vinh). Di tích được phát hiện năm 1985, khảo sát các năm 1986 -1987 và tổ chức khai quật. Kết quả cho thấy tại đây còn lại dấu vết của một công trình kiến trúc có quy mô lớn, mặt bằng hình chữ nhật chạy theo hướng đông tây dài 31,2m, rộng17,2m chiều cao còn 1,5m gồm 18 hàng gạch xây hiện còn. Mặt nền kiến trúc cao 1,5m hình chữ nhật, phân thành 3 phần, bên ngoài có hành lang bao quanh 3 mặt, riêng phía đông là sàn nền lát gạch nối với bậc lên xuống, bên trong có 14 ô vuông nằm cách quãng nhau. Kiến trúc trung tâm hình chữ nhật dài11,3m rộng3,6m. Hiện vật thu được trong kiến trúc gồm bệ thờ 04 chiếc, Yony, Linga, Linga- Yony thạch anh, ly đồng, cánh tay tượng, các lá vàng… Đây là kiến trúc loại hình đền thờ. Niên đại kéo dài từ thế kỷ IV đến thế kỷ VII.
6. Di tích Chùa Tháp.
 Di tích là một tháp gạch nằm trên địa bàn ấp Đồn Điền, xã Tập Sơn, huyền Trà Cú (Trà Vinh) trong khuôn viên chùa Tháp (có tên gọi là chùa Chệt Đề) Tháp xây thuần chất liệu gạch còn lại nhô lên cao 5,0m, hình khối tròn, đường kính 5m. Riêng phần chân chưa rõ. Theo các nhà khảo sát  khi so sánh vật liệu xây dựng, cho rằng tháp có niên đại vào thế kỷ IX – X (Đào Linh Côn – 1992)
7. Di tích chùa Trà Kháu.
 Di tích nằm trên địa bàn ấp Trà Kháu, xã Hòa An, huyền Cầu Kè (Trà Vinh), trong khuôn viên chùa Trà Kháu. Theo khảo sát năm 1992 cho biết đây là một phế tích kiến trúc thuộc loại đền thờ có quy mô lớn. Tài chùa còn lưu giữ nhiều hiện vật thờ liên quan đến di tích:  04 tượng thờ Linga cao 0,79m và 0,45m, bệ thờ Yony, cùng nhiều mảnh tượng thờ. Niên đại di tích có thể vào thế kỷ VII – IX (Đào Linh Côn -1992)
8. Di tích Chùa Cây Hẹ.
 Di tích nằm trong khuôn viên chùa Cây Hẹ trên địa bàn thị trấn Tiểu Cần, huyện Tiểu Cần (Trà Vinh) tại đây khi khảo sát đã tìm được một hệ thống di vật liên quan đến kiến trúc gồm tượng Linga, 04 tượng Phật. Qua so sánh cho thấy những tượng này có niên đại muộn vào thế kỷ VII – IX và cho rằng tại đây có một kiến trúc tôn giáo sau đó bị san phẳng xây chùa Hẹ lên trên (Đào Linh Côn 1992)
9. Di tích Gò Sao
Di tích Gò Sao là một phế tích kiến trúc thuộc địa bàn xã Tân Phú, huyện Đức Hòa (Long An).  Di tích được xây dựng trên một gò cao, hình tròn đường kính khoảng 50m, cao trên 2,2m so với mặt ruộng xung quanh. Di tích  khai quật năm 1987 làm xuất lộ móng kiến trúc xây gạch hình chữ nhật dài 4,8m, rộng 3,7m, cửa mở về phía đông có bậc đi lên. Hiện vật tìm được là Yony, tượng Visnu.
Niên đại  thế kỷ IX - XIII( 14C  gồm  830 + (-) 40 và  1246 + (-) 46 AD) ( Vương Thu Hồng 1990)
10. Di tích Gò Miếu ( hay còn gọi là Phước Thạnh)
Di tích thuộc loại hình phế tích kiến trúc nằm trên địa bàn ấp Phước Thạnh, xã Phước Vĩnh, huyện Châu Thành (Tây Ninh). Phát hiện năm 1990, khai quật năm 1991. Hiện vật một số đá kiến trúc.
Niên đại thế kỷ VII – VIII
11. Di tích Gò Tháp An Lợi
Di tích thuộc loại hình phế tích kiến trúc nằm trên địa bàn ấp An Lợi, xã Châu Lăng, huyện Tri Tôn (An Giang), tọa độ 10026’18” vĩ độ bắc 105000’28” kinh đông.  Di tích nằm trên một gò nhỏ  cao 2,5m so với địa hình xung quanh,  ven hệ thống núi Tinh Biên – Tri Tôn. Di tích phát hiện năm 1999 với dấu vết móng kiến trúc và tượng nữ thần. Năm 2002 tiến hành tổ chức khai quật  làm xuất lộ mặt bằng phế tích kiến trúc hình chữ nhật hướng đông tây dài19,2m rộng 11,6m được xây bằng vật liệu gạch, diện tích rộng trên 300m2. Tường còn lại cao 2,5m đến 3,6m được xây bằng gạch. Kỹ thuật xây mài xếp với những hàng cột ốp nhô khỏi tường 2cm – 3cm, chạy song song. Móng kiến trúc được bẻ góc hai bên đối xứng nhau.T. Gạch xây có kích thước khá lớn (0,36m x0,15m, 0,07m) màu xám vàng, xám trắng, đỏ nhạt có độ nung khá cao. Gạch khá chắc. Hiện vật thu được,
Mặt bằng kiến trúc đền thờ Gò An Lợi
các mảnh bệ thờ là các mảnh đá được chế tác công phu trang trí đẹp dùng để ốp vào trang trí bệ thờ, mặt bàn thờ hình tròn,  mảnh vỡ của Linga vật thờ chính trong di tích,  bậc đá  cửa hình móng ngựa,  nhiều mảnh máng nước thiêng ( Somasutra) có trang trí hoa văn đẹp. Hiện vật được chế tác từ đá màu xám nhạt,  hạt thô, độ cứng cao. Đây là kiến trúc tôn giáo dạng đền thờ có niên đại xây dựng vào thế kỷ VII – VIII. (Đào Linh Côn- Nguyễn Minh Sang….2008)
KiÕn tróc ®Òn An Lîi
BÖ thê
12. Di tích Gò Rộc Chanh.
Di tích nằm trên địa bàn xã Tân Thạnh, huyện Vĩnh Hưng ( Long An).Ngoài tên gọi Rộc Chanh, di tích còn có tên gọi là Gò Ông Tà hay Gò Lớn. Cuộc khai quật năm 1986 làm xuất lộ hai kiến trúc gạch  có bình đồ mặt bằng hình chữ nhật, cửa mở về hướng đông. Giữa lòng có trụ thiêng chứa vật thiêng. Hai kiến trúc được xây giáp nhau kéo dài 6,25m từ tây sang đông. Dựa vào kết cấu khối kiến trúc hiện còn cho biết, kiến trúc phía tây được xây dựng trước kiến trúc phía đông. Niên đại vào cuối thế kỷ VII đầu thế kỷ VIII. (Võ Sĩ Khải-2008)
13 Di tích Gò Năm Tước.
Di tích nằm trên địa bàn xã Đức Hòa Hạ, huyện Đức Hòa (Long An). Cuộc khai quật làm xuất lộ phần còn lại của móng kiến trúc. Kiến trúc có bình đồ hình chữ nhật, các góc bẻ đối xứng theo trục đông – tây. Kích thước chiều dài 17,4m hướng đông – tây; rộng 11,2m hướng bắc – nam. Với quy mô lớn cho thấy đây là loại hình kiến trúc đền thờ. Niên đại vào thế kỷ VII – VIII.
14 Di tích Miếu Bà( hay còn gọi miếu Bà Chúa Xứ)
Di tích nằm trên địa bàn xã Tân Kiều, huyện Tháp Mười (Đồng Tháp). Di tích được xây dựng trên vùng đất cao, có quy mô khá lớn trong khu di tích Gò Tháp. Hai cuộc khai  làm xuất lộ hệ thống móng kiến trúc xây gạch có quy mô lớn. Kiến trúc có mặt bằng hình chữ nhật, các góc bẻ cân xứng qua trục bắc – nam . Kích thước chiều dài 20,9m, hướng đông – tây; chiều rộng 13,4m, hướng bắc nam. Tường kiến trúc còn lại cao 0,6m – 0,8m. gạch có kích thước trung bình dài 29cm - 30 cm, rộng 15cm - 18cm, dày 7cm- 10cm.  Đây có thể là loại hình kiến trúc đền thờ.Niên đại xác định vào thế kỷ VII – VIII
15. Di tích Đồng Bơ.
Di tích nằm trên gò cao thuộc địa bàn xã Phủ Lý, huyện Tân Phú (Đồng Nai).Cuộc khai quật năm 1987cho thấy dấu vết một kiến trúc gạch - đá có bình đồ gần vuông. Kích thước dài 5m, rộng 4m, tường vách ngoài xây gạch chính giữa là kiến trúc đá. Đây có thể là kiến trúc trụ thiêng trong lòng đền thờ có quy mô lớn đã bị phá hủy.Hiện vật thu được có tượng tay cầm vật linh hình con ốc, biểu tượng vật linh của thần Visnu, con lăn chất liệu đá.Niên đại: thế kỷ VII – VIII. (Nguyễn Văn Long 1997)
16.Di tích Nam Cát Tiên.
Di tích nằm ven sông Đồng Nai, trên địa bàn xã Nam Cát Tiên, huyện Tân Phú ( Đồng Nai). Cuộc khai quật năm 1989 xuất lộ dấu vết kiến trúc đó là một hố móng có mặt bằng hình chữ vuông, cạnh dài 6,5m,  mặt là sàn gạch hình vuông cạnh dài 5m; đáy thu hẹp hình phễu. Trong lòng có nhiều lớp cát, đá lấp xen kẽ nhau.Đây có thể là dấu vết của hộp trụ thiêng trong lòng kiến trúc của một đền thờ. Ngoài dấu vết kiến trúc gạch, tại đây còn tìm được nhiều thành phần kiến trúc đá như cột đá hình khối hộp chữ nhật, cạnh góc cắt vuông vức; nhiều mảnh gốm các loại.Niên đại thế kỷ VII – VIII. (Nguyễn Văn Long 1991-1997)
17. Di tích Đạ Lắk.
Di tích nằm trong địa bàn vườn Quốc Gia Nam Cát Tiên, huyện Tân Phú (Đồng Nai), trên một ngọn đồi nhỏ không cao. Cuộc khai quật năm 1995 xuất lộ  phần móng còn lại của một kiến trúc. Kiến trúc có mặt bằng hình vuông, cạnh dài 4,5m, tường dày 0,9m, xây gạch liên kết nhau chắc chắn.
Niên đại thế kỷ VII – VIII. (Nguyễn Văn Long & Lưu Văn Du -1995)
18.Di tích Gò Sao
Di tích nằm trên địa bàn xã Tân Phú, huyện Đức Hòa( Long An) trên một gò cao có dạng gần tròn cao khoảng 2,2m so với mặt bằng xung quanh. Cuộc khai quật năm 1987 xuất lộ dấu vết một kiến trúc có mặt bằng hình chữ nhật dài4,8m hướng đông tây, rộng 3,7m hướng bắc – nam, mặt quay về hướng đông với dấu vết bậc thềm dẫn lên mặt di tích. Niên đại thế kỷ VIII. (Lê Xuân Diệm 1995-Võ Sĩ Khải-2008)
19. Di tích Rạch Đông.
Di tích nằm trên địa bàn xã Tân An, huyện Vĩnh Cửu (Đồng Nai), trên gò đất cao dạng gần tròn đường kính 16 -17m, cao hơn mặt bằng xung quanh từ 0,7m – 2,5m. Cuộc khai quật năm 1992 làm xuất lộ dấu vết của 4 kiến trúc gạch, trong đó có một kiến trúc có mặt bằng hình vuông cạnh dài 3,8m; những kiến trúc còn lại đều có cấu trúc xây gạch hình vuông bên trong. Cùng với dấu tích còn lại của kiến trúc, tại đây còn thu được các hiện vật như tay tượng, bàn nghiền ( Penasi) hay các mảnh vàng có trang trí. Niên đại vào thế kỷ VII – VIII (Võ Sĩ Khải-2008)
20. Di tích Gò Trâm Quỳ.
Di tích nằm trên địa bàn xã Hòa Khánh Nam, huyện Đức Hòa (Long An) trong nhóm di thích Tho Mo. Cuộc khai quật năm 1987 tìm thấy dấu vết một kiến trúc gạch có quy mô lớn có chiều dài đến 35m nhưng chưa rõ chiều rộng. Trong lòng kiến trúc tìm được bộ ngẫu tượng thờ Linga - Yony,  đầu tượng thờ (Ganêsa), 50 mảnh vàng trang trí, đồ sắt. Đây có thể là đấu vết của một đền thờ có quy mô lớn.Niên đại thế kỷ VIII – X (Võ Sĩ Khải-2008)
21. Di tích Gò Bường.( hay còn gọi là Bàu Thành)
Di tích Gò Bường nằm  trên địa bàn xã Long Phước, huyện Long Thành (Đồng Nai) hay địa điểm này còn có tên gọi là Bàu Thành hay Nhà Mát. Cuộc khai quật  5-1989 làm xuất lộ móng của một kiến trúc gạch có quy mô lớn. Mặt bằng kiến trúc hình chữ nhật, hướng đông tây, dài 20m, rộng 15m. Niên đại: thế kỷ IX – X (Nguyễn Văn Long 1997)
22. Di tích Gò Cây Tung.
 Di tích gò Cây Tung nằm trên địa điểm gò đất  cao tới 13,5m quy mô lớn với diện tích rộng khoảng 11.700m2, thuộc địa bàn ấp Thới Thuận, xã Thơí Sơn huyện Tịnh Biên (An Giang).  Từ năm 1993 -1995 các cuộc khai quật được Viện Khảo cổ học và Bảo tàng tỉnh An Giang thực hiện. Kết quả cho biết tại địa điểm này vừa là di chỉ cư trú vừa còn lại dấu tích kiến trúc gạch có niên đại muộn sau này. Niên đại của các kiến trúc được cho là vào thế kỷ IX – X. (Tống Trung Tín…1995-Võ Sĩ Khải-2008)
23.Di tích Gò Cây Me ( hay còn gọi là gò Thành Mới)
Di tích nằm trên địa bàn xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm (Vĩnh Long). Cuộc khai quật năm 1998 làm xuất lộ dấu vết kiến trúc gạch có mặt bằng hình  chữ nhật hướng bắc – nam, các góc được bẻ nhiều lớp đối xứng nhau.  Kích thứơc dài 7m, rộng 4,5m, có thể là hai công trình kiến trúc của hai thời kỳ lịch sử xây đè lên nhau.Niên đại thế kỷ IX – X. (Trịnh Cao Tưởng - 1999)
24. Di tích Óc Eo- Ba Thê
Di tích gồm di chỉ cư trú và phế tích kiến trúc có quy mô lớn, tầng văn hóa dày, phế tích kiến trúc lớn. nằm trên địa bàn xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn (An Giang). Phát hiện  năm 1942, khai quật cấc năm 1944 và 1983. Hiện vật gồm móng kiến trúc, tượng thờ, đồ đá trang trí kiến trúc, đồ gốm, xương. Niên đại kéo dài từ thế kỷ I đến thế kỷ VII.
25. Di tích Gò Giồng Xoài
Di tích nằm trên địa bàn ấp Sơn Hòa, xã Mỹ Hiệp Sơn, huyện Hòn Đất (Kiên Giang). Khai quật năm  1944 – 1983 – và 2001. Hiện trạng đây là loại hình di chỉ cư trú có niên đại sớm. Dấu vết kiến trúc gạch có niên đại muộn. Di vật gồm nhiều loại hình, đồ gốm, lá vàng có trang trí vv..
Niên đại di tích kiến trúc thế kỷ X – XI (14 C1070 AD)
26. Di tích Gò Tháp Mười.
Di tích nằm trên địa bàn ấp 1 xã Tân Kiều, huyện Tháp Mười (Đồng Tháp).Di tích được khảo sát vào năm 1944, tại đây ngoài phế tích kiến trúc  còn tìm được 3 tấm  bia. Bia có ký hiệu K1 (hiện bảo quản tại BT thành Phố Hồ Chí Minh) được định niên đại vào cuối thế kỷ V. Bia kí hiệu K6 và K7 có niên đại vào thế kỷ VIII (năm 716). Đây là khu di tích lớn gồm một nhóm kiến trúc, trong đó kiến trúc trung tâm có quy mô lớn nhất.Năm  1984 Trung tâm KCH phía nam tiến hành khai quật làm xuất lộ nền móng di tích.  Hiện trạng  còn lại móng kiến trúc xây gạch,  gạch có gạch dày trung bình 32cm - 33cm; rộng  16cm - 17cm, dày 7,5cm - 9cm.; các thành phần kiến trúc đá: cột ốp cửa, bậc cửa vv.. Di vật  thu được gồm tượng thờ, đồ gốm các loại hình.Nhóm di tích có niên đại kéo dài từ thế kỷ V đến thế kỷ VIII. Đào Linh Côn – Võ Sĩ Khải – 2004)
27. Di tích Nhơn Thành
Di tích Nhơn thành thuộc địa phận ấp Nhơn Thành, xã Nhơn Nghĩa, huyện Châu Thành (Cần Thơ).  Di tích gồm di chỉ cư trú và phế tích kiến trúc. Phát hiện năm 1990. Hiện vật gồm vật liệu kiến trúc, tượng thờ, lá vàng trang trí, đồ gốm.
Niên đại từ thế kỷ IV – VI (Nguyễn Duy Tùy 1991)
28. Di tích Gò Đồn.
Di tích Gò Đồn còn có tên gọi là Tháp Lấp hoặc Tháp Lớn được xây dựng trên một gò đất cao 5,11m và có quy mô lớn thuộc địa bàn ấp Bình Tả, xã Đức Hòa Hạ, huyện Đức Hòa (Long An). Di tích được phát hiện năm 1931. Cuộc khai quật năm 1987 -1988 tìm thấy một nền kiến trúc dài 7m, rộng 5m. Một đền thờ phụ có mặt bằng hình chữ nhật kích thước dài 5,7m, rộng4,8m, tường gạch cao 1,6m gồm 20 lớp gạch xây tạo nên. Sân trước đền thờ chính dài 16m, rộng 6m.Đền thờ chính bị hủy hoại nhiều, trung tâm nền đền thờ có hố thờ hình vuông cạnh 2,3m x2,3m. Hiện vật tìm được gồm  Linga, đầu tượng Shiva,tượng Ganesa, tượng Dvappalla, bàn nghiền , đồ gốm. Niên đại vào thế kỷ VII – VIII.
29.Tháp Vĩnh Hưng.
 Tháp Vĩnh Hưng tọa lạc trên nền đất cao thuộc địa bàn ấp Trung Hưng I; xã Vĩnh Hưng; huyện Vĩnh Lợi Tỉnh Bạc Liêu. Tọa độ địa lý: 9023’23” vĩ bắc.105034’ 55” kinh đông.Tháp còn có tên gọi là tháp Trà Long hay tháp Lục Hiền. Tháp được biết đến năm 1911, năm 1917 khi khảo sát tháp đã tìm được những hiện vật liên quan như : tượng thờ Linga- Yony, bàn chân tượng Sư Tử, bàn tay tượng cầm con ốc, bàn nghiền (Penasi), trụ cột hình lục giác, bia ký có niên đại năm 892.Cuộc khảo sát năm 1934 phát hiện thên đầu tượng Dvappalla, đầu tượng thần 4 mặt (Bhrama), tượng đồng, bàn nghiền . Năm 1990 quá trình thám sát dưới chân tháp phía đông tìm được đầu tượng phật bằng đồng cao 6cm, bàn tay tượng, bàn nghiền và tảng chì nặng 13,5kg.. Năm 1987 Bảo tàng Minh Hải khai quật diện tích 20m2 tìm được tại độ sâu 0,8 m lớp mặt của nền và sân tháp với 12 lớp gạch xếp chồng khít lên nhau, dưới là lớp cát vàng nện chặt dày 0,25m, tiếp phía dưới là lớp đá vụn trộn lẫn cát đầm lèn chặt tạo nên nền sân tháp vững chắc. hiện vật tìm được gồm đồ gốm không men của các loại hình đồ đựng, đồ nấu với kỹ thuật nặn tay, gốm dày thô, hình dáng không ổn định. Gốm sản xuất kỹ thuật bàn xoay, xương dày đều mịn, độ nung khá cao. Gốm có men gồm các mảnh bát đĩa, men màu trắng mịn. Ngoài ra còn các loại hình hiện vật khác như mảnh chì, mảnh điêu khắc đá, mảnh đồng....(Phạm văn Sĩ – 1987)
Năm 2002 cuộc khai quật tại tháp được tiến hành thu được một số lượng hiện vật lớn gồm nhiều loại hình chất liệu khác nhau. Chất liệu đá gồm 27 hiện vật gồm, bệ thờ Yony, đầu tượng tay tượng, bệ tượng, chân tượng thú vv..Chất liệu đồng gồm 22 hiện vật gồm: tượng thần Visnu, Garuda, tượng thần mất đầu, tượng sư tử, chuông, bàn tay tượng, bệ tượng…01 hiện vật vàng và 02 hiện vật đất nung
 Hiện nay tháp đã bị sụp lở phần phía đông, còn lại một phần kiến trúc tường tháp phía tây cao 9,3m.Mặt bằng tháp bình đồ vuông cạnh dài9,36m x9,36m, xây gạch có kích thước lớn (0,29m x0,15mx0,07m)

Tháp Vĩnh Hưng
Niên đại tháp được định vào thế kỷ IX – X
30. Các phế tích kiến trúc khu di tích Cát Tiên
Khu di tích Cát Tiên (Lâm Đồng) được Bảo tàng tỉnh Lâm Đồng phát hiện năm 1986, nằm trên bờ đông sông Đạ Đờn thuộc địa bàn huyện Cát Tiên. Quá trình khảo sát cho biết nơi đây có nhiều công trình kiến trúc bị sụp đổ kéo dài gần 15km chạy dọc ven sông từ đại bàn xã Đức Phổ đến địa bàn xã Quảng Ngãi huyện Cát Tiên.Các phế tích kiến trúc hầu hết bị sụp đổ vùi lấp thành gò cao, tập trung đậm đặc nhất trên địa bàn xã Quảng Ngãi. Năm 1994 Viện khảo cổ học  phối hợp với Bảo tàng tỉnh Lâm Đồng tiến hành tổ chức khai quật di tích đầu tiên. Từ đó đến nay (năm 2009) đã có 7 cuộc khai quật tại khu di tích này do viện Khảo cổ học (1994 -1998) và Trung tâm  nghiên cứu khảo cổ học – Viện Khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh tiến hành (2002 -2006). Kết quả khai quật đã khẳng định đây là một khu di tích có  số lượng nhiều, quy mô lớn, mật độ dày đặc là một trung tâm tôn giáo quan trọng của vùng đất phương nam. Nội dung tôn giáo thờ các vị thần Ấn Độ Giáo. Kiến trúc cùng các hiện vật thờ tìm được mặc dù nội dung mang đậm ảnh hưởng của văn hóa tôn giáo Ấn Độ như các di tích ở đồng bằng Nam bộ, nhưng có nét riêng, mang bản sắc riêng của chủ nhân sáng tạo ra chúng. Chính vì thế chúng tôi xếp vào các di tích thuộc thời kỳ hậu óc Eo
- Di tích Gò Số I( Đồi Khỉ  )
Di tích Đồi Khỉ là một phế tích kiến trúc bị sụp đổ nằm trên đồi cao phía đông thuộc địa bàn xã Quảng Ngãi; huyện Cát Tiên (Lâm Đồng).  Di tích được Bảo
.
Cửa Di tích Gò số I
tàng tỉnh Lâm Đồng phát hiện năm 1986. Năm 1998 cuộc khai quật được tiến hành, kết quả cho thấy đây là một kiến trúc điện thờ coa mặt bằng hình vuông, cạnh dài 12m cửa mở về hướng đông. Lòng tháp có kích thước 6,4m x6,4m. Tường  còn lại cao 3,2m dày 0,9m được xây bằng chất liệu gạch thuần nhất. Hiện vật còn bệ thờ Linga – Yony được , tượng đá Ganêsa, 166 lá vàng có  trang trí 
Niên đại di tích  thuộc thế kỷ IX
-  Gò số II
 Đây là một nhóm gồm 5 phế tích kiến trúc bị sụp đổ với các loại hình tháp thờ, nhà dài (madappa). Được phát hiện năm 1986. Tai địa điểm này có 3 cuộc khai quật
* Năm 1994 Viện Khảo cổ khai quật tháp IIa tìm được kiến trúc tháp có mặt bằng hình vuông cạnh dài 7,8m, lòng lát đá tấm, cửa mở về hướng đông. Tường tháp còn lại cao 1,6m, dày 0,8m xây gạch thuần nhất được khắc tạc hoa văn trang trí.Tại đây thu được cột đá tiện tròn, mi cửa trang trí, bệ thờ Linga – Yony bằng đá và thạch anh. Lòng tháp thu được 106 mảnh vàng có trang trí.
Tháp Gò IIa
 Cột đá và mi cửa gò IIa
* Gò IIB. Viện khảo cổ khai quật năm 1998 cho thấy kiến trúc là một phế tích tháp có mặt bằng hình  gần vuông cạnh 3,6m x3,13m, cửa mở về hướng đông, được xây gạch thuần nhất. Tường còn lại cao 0,8m – 1,2m dày 0,75m. Hiện vật thu được gồm bệ thờLinga – Yony, 6 mảnh vàng có trang trí
 Kiến trúc gò IIB
* Gò II C – D do Trung tâm nghiên cứu khảo cổ học- Viện KHXH Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành năm 2002. Cuộc khai quật làm xuất lộ một kiến trúc có mặt bằng hình chữ nhật hướng đông – tây dài 16m, rộng8,1m, cửa mở về hướng đông. Tường được xây bằng gạch thuần nhất, còn lại cao 0,8m – 1,2m, dày 1,4m. Gò IID được xây dựng song song với gò IIC. Kiến trúc có mặt băng hình chữ nhật hướng đông – tây dài 17,08m rộng6,88m, cửa mở về hướng đông. Tường còn lại cao từ 1,57m – 1,87m, dày 1,7m – 1,8m, xây thuần chất liệu gạch. Tại đây tìm được nhiều ngói lợp, đồ gốm. Đây là hai công trình kiến trúc  liên quan đến kiến trúc tháp IIA và IIB. Chức năng là nhà dài trong tổng thể kiến trúc chung nhóm II
Gò II C
*Trong nhóm các phế tích gò  II, ngoài các kiến trúc đã nêu ở phía đông tiếp giáp tường bao quanh nhóm còn xuất hiện một kiến trúc tháp có quy mô nhỏ. Kiến trúc có bình đồ hình chữ nhật, kích thước 3,8m x3,3m, cửa mở về phía nam. Với lòng tháp rộng 1,5m x1,5m, có thể thấy đây là một tháp thờ phụ.
- Gò số III
Đây là một kiến trúc thuộc đền thờ bị sụp đổ. Phát hiện năm 1986, khai quật năm 2001 làm xuất lộ một phế tích kiến trúc tháp thờ. Mặt bằng kiến trúc hình vuông, cạnh 9,6m x9,6m, tường tháp còn lại cao 1,52m trúc còn lại tường cao 0,7m; hiện vật gồm bệ thờ, các lá vàng trang trí. Niên đại thế kỷ IX
 Gò số III
- Gò số IV
 Di tích là một kiến trúc thuộc loại tháp thờ bị sụp đổ. Phế tích  phát hiện năm 1986, năm 1996 Viện khảo cổ học tổ chức khai quật. Cuộc khai quật làm xuất lộ phế tích tháp thờ. Mặt bằng kiến trúc hình  chữ nhật, dài 9,2m rộng 8,7m, cửa mở về hướng đông. Lòng được lát đá phiến Hiện trạng tường tháp cao 0,56m – 0,87m. Hiện vật thu được gồm bệ thờ, vật thờ (Linga – Yony).
Gò số IV
- Gò số V
Di tích thuộc loại đền thờ – mộ (?).Phát hiện năm 1986, Viện khảo cổ học tiến hành khai quật năm 1994. kết quả cho thấy kiến trúc có bình đồ mặt bằng vuông, cạnh 6m x6m xây đặc gạch như một khối hộp cao 4,8m.Tường kiến trúc thu hẹp dần lên đỉnh tạo mặt phẳng rộng trên đó có đặt bộ ngẫu tượng thờ Linga – Yony. Có thể đây là loại hình kiến trúc đền mộ thờ(?). Hiện vật thu được tượng thờ, đồ đồng, đồ gốm.Niên đại thế kỷ VIII.
 Gò số V
* Bên cạnh gò số V, năm 2003 còn phát hiện thêm một kiến trúc bị sụp đổ được đánh ký hiệu gò Va. Kiến trúc có mặt bằng hình chữ nhật, dài 5,84m, rộng 5,3m. Móng kiến trúc cao 1,5m được xây gạch đá vững chắc, từ lòng kiến trúc còn để lại dấu vết máng dẫn nước thiêng( Somasutra) chảy về phía bắc dài 7m được xây bằng gạch.
- Gò số VI
 Di tích gồm 3 kiến trúc bị sụp đổ. Phát hiện năm 1986, Trung tâm nghiên cứu khảo cổ học  khai quật năm 2003. Ba kiến trúc được xây dựng trên cùng một mặt bằng.Mặt bằng kiến trúc hình chữ nhật hướng đông tây dài 7,3m, rộng5,4m. Tường kiến trúc còn lại cao 1,6m. được xây thuần nhất chất liệu gạch. Hiện vật thu được gồm bệ thờ Linga - Yony, tượng thờ, các tác phẩm điêu khắc đá, đồ đồng, đồ bạc.Niên đại thế kỷ IX – X.
 Gò số VI
- Gò số VII.
Phế tích gồm nhiều công trình kiến trúc bị sụp đổ, gồm tháp thờ, nhà dài. Phát hiện năm 1986,  Trung tâm nghiên cứu khảo cổ học khai quật năm  2005. Trên mặt bằng đỉnh gò cuộc khai quật làm xuất lộ 3 phế tích kiến trúc. Kiến trúc có mặt bằng hình chữ nhật hướng đông tây dài 10m, rộng6,4m; dài10,8m rộng 7,2m và dài10m rộng 4m. Tường kiến trúc còn lại cao 1,2m. Hiện vật  thu được gồm bệ thờ Linga - Yony, các lá vàng trang trí, đồ đồng, đồ bạc nhiều loại hình. Niên đại thế kỷ VIII.
 Gò số VII
- Phế tích ký hiệu 03 CT .H2
  Phế tích thuộc loại đền mộ bị sụp đổ . Phát hiện năm 1986, khai quật năm  2004. Hiện trạng chỉ còn mặt bằng kiến trúc hình vuông cạnh 5,6m x 5,6m. Trong lòng kiến trúc tìm được  các lá vàng trang trí chôn trong bình gốm.Niên đại thế kỷ VI.
- Phế tích Đức Phổ
 Phế tích là một quần thể kiến trúc bị sụp đổ gồm đền thờ, nhà dài. Phát hiện năm 1986, khai quật năm 1987 và 2003 thuộc địa bàn xã Đức Phổ; huyện Cát Tiên.Hiện trạng tường kiến trúc cao 1,4m, hiện vật gồm bệ thờ, lá vàng trang trí, đồ đồng, đồ bạc,đồ gốm vv. Đây là loại hình kiến trúc đền thờ
Niên đại : thế kỷ VIII
Bảng niên đại C14 một số di tích thời kỳ  óc Eo
( Sử dụng những niên đại có tuổi gần nhất)
Số TT
Tên di tích
Loại hình
Mẫu chọn
Niên đại
( năm AD)
Phòng xét nghiệm
1
Gò Cây Tung II
Kiến trúc
Than gỗ
1050 + 45
HCM 01/07
2
Linh sơn Nam
Kiến trúc
Than gỗ
690 + 70
730 + 50
760 + 70
780 + 80
840  +70
880 + 50
wk 6344
wk 6346
wk 6341
wk 6345
wk 6343
wk 6342
3
Giồng Xoài
Kiến trúc
Than gỗ
880  + 90
HCM 01
4
Vĩnh Hưng
Tháp
cọc gỗ
1030  + 45
HCM 1997
5
Gò Tháp
cư trú
Than
670  + 60
HCM 1984
6
Gò Chàm
Kiến trúc
Than
680  + 30
HCM 1985
7
Gò Thành
Kiến trúc
 gỗ
750  +  45
740  +  50
HCM 1989
HCM 1989
8
Gò Sao I
Kiến trúc
Than
704  + 46
HCM 1987
9
 Gò Sao II
Kiến trúc
Cọc gỗ
1120  +  40
VSK
10
Gò Chùa
Kiến trúc
Cọc gỗ
1260  +45

Cho đến nay đã có trên 100 di tích thuộc văn hóa óc Eo được phát hiện tổ chức khai quật. Các di tích không chỉ  được xây dựng ở vùng trũng đất Nam bộ mà có mặt trên các loại địa hình như vùng đất thềm phù sa cổ, hình thế đất cao phù sa mới và địa hình vùng coi là đồi gò cao. Những di tích  có mặt sau thế kỷ VII – XIV hay gọi là hậu Óc Eo  thường được kế thừa từ các di tích được xây dựng trên vùng đất cao, phù sa cổ và vùng đồi gò cao.
Nhóm thứ hai chủ yếu tập trung trên vùng đất đông Nam Bộ và vùng biên giới hành chính hiện nay. Đây là vùng đất chuyển tiếp giữa vùng núi và vùng đồng bằng có địa hình cao, nằm ven các con sông giao thông thuận lợi. Địa hình xây dựng các di tích  thường nằm trên các vùng gò đất cao thoáng hay các vùng gò đồi chuyển tiếp giữa đồng bằng và núi, hoặc tựa vào sườn núi thấp. Các di tích  được xây dựng ven các dòng sông, nhánh sông chủ yếu dọc theo sông Đồng Nai và sông Tiền sông Hậu thuận lợi cho giao thông, hình thành nên hệ thống di tích dọc hai bờ sông kéo dài nhiều thế kỷ. Các di tích ở đây  xuất hiện những nhóm kiến trúc như nhóm quanh núi Ba Thê nhưng không lớn, tập trung, hình thành nên các trung tâm tôn giáo lớn như Mỹ Sơn, Đồng Dương, PoNaga trong văn hóa Champa; hay Sambor PreiKuk trong văn hóa Khmer.  Các kiến trúc ở đây chủ yếu là loại hình đền thờ, được sử dụng khá dài từ thế kỷ IV đến thế kỷ X. Những kiến trúc tháp thờ thường có niên đại muộn hơn tiếp nối loại hình đền thờ trước đó. Duy nhất chỉ có nhóm kiến trúc tại Cát Tiên là một ngoại lệ, có thể do hoàn cảnh lịch sử tạo nên.
.Một vài nhận thức.
Những kết quả khai quật trên cho thấy  những di tích thuộc giai đoạn  óc Eo có thể chia thành hai nhóm:
- Nhóm di tích được xây dựng kế thừa từ các di tích thuộc văn hóa Óc Eo. Nhóm kiến trúc này thường có bình đồ nhỏ thu hẹp lại so với các kiến trúc được xây dựng thời kỳ Óc Eo cùng những di vật gốm, tượng đá được bổ xung có niên đại muộn.
- Nhóm kiến trúc được xây dựng vào thời kỳ hậu Óc Eo. Nhóm kiến trúc này thường có quy mô nhỏ, các hiện vật thờ, đồ gia dụng có niên đại tương đồng.
Đặc trưng chung của kiến trúc hậu Óc Eo là vật liệu xây dựng gạch được sử dụng nhiều hơn, có mặt liên tục và số lượng lớn. Kích thước gạch thường nhỏ hơn so với giai đoạn trước Các hiện vật thờ được chế tác mỹ thuật hơn. Đặc biệt sự xuất hiện của các đồ thờ chất liệu đồng, kim loại màu vàng phong phú, chế tác trình độ kỹ xảo cao. Phân bố di tích khá đồng đều trên mọi vùng đất; nhưng  có thể chia làm hai nhóm. Nhóm dưới đồng bằng các di tích không tập trung, được xây dựng rải đều trên các địa bàn, nhưng  có quy mô lớn, được xây dựng trên các gò đất. Giồng đất cao, thường trên 2m so với mực nước biển ngày nay. Nhóm này về  mặt bằng kiến trúc  cho thấy đây là loại hình  đền thờ thường có mặt sớm và được sử dụng lại đến sau này. Cho đến nay đã có trên 100 di tích thuộc văn hóa óc Eo được phát hiện tổ chức khai quật. Các di tích không chỉ  được xây dựng ở vùng trũng đất Nam bộ mà có mặt trên các loại địa hình như vùng đất thềm phù sa cổ, hình thế đất cao phù sa mới và địa hình vùng coi là đồi gò cao. Những di tích  có mặt sau thế kỷ VII – XIV hay gọi là hậu Óc Eo  thường được kế thừa từ các di tích được xây dựng trên vùng đất cao, phù sa cổ và vùng đồi gò cao.
Nhóm thứ hai chủ yếu tập trung trên vùng đất đông Nam Bộ và vùng biên giới hành chính hiện nay. Đây là vùng đất chuyển tiếp giữa vùng núi và vùng đồng bằng có địa hình cao, nằm ven các con sông giao thông thuận lợi. Địa hình xây dựng các di tích  thường nằm trên các vùng gò đất cao thoáng hay các vùng gò đồi chuyển tiếp giữa đồng bằng và núi, hoặc tựa vào sườn núi thấp. Các di tích  được xây dựng ven các dòng sông, nhánh sông chủ yếu dọc theo sông Đồng Nai và sông Tiền sông Hậu thuận lợi cho giao thông, hình thành nên hệ thống di tích dọc hai bờ sông kéo dài nhiều thế kỷ.Các kiến trúc ở đây chủ yếu là loại hình đền thờ, được sử dụng khá dài từ thế kỷ IV đến thế kỷ X. Những kiến trúc tháp thờ thường có niên đại muộn hơn tiếp nối loại hình đền thờ trước đó. Cho đến nay Khảo cổ học hầu như rất ít phát hiện sự tồn tại của các di tích trên miền đất châu thổ thấp trũng của miền tây sông Hậu, địa bàn truyền thống của cư dân óc Eo. Ngược lại các di tích có mặt nhiều ở vùng phù sa cổ ven châu thổ phía tây bắc đồng bằng Nam Bộ, nơi vốn là vùng đất cao, xa địa bàn trung tâm văn hóa óc Eo, các vùng cao thuộc lưu vực sông Đồng Nai- vàm cỏ có số lượng di tích nhiều mật độ tập trung với nhiều loại hình di tích, di vật phong phú vừa mang truyền thống của văn hóa óc Eo, vừa có những yếu tố mới mang tính địa phương rõ nét.
-  Dựa vào quy mô kiến trúc có thể thấy, về loại hình di tích có hai loại: đền thờ và tháp thờ. Đền thờ là loại hình kiến trúc chủ yếu được xây dựng có mặt trước thế kỷ VII, thường chỉ còn lại phần móng xây gạch với quy mô lớn,  mặt bằng kiến trúc hình chữ nhật, được phân bố khá rộng có mặt hầu hết trên địa bàn các di tích ở Nam Bộ. Tại các di tích này thường có mặt các tác phẩm điêu khắc tôn giáo có niên đại sớm. Về phân bố dấu vết di tích loại hình đền thờ có mặt hầu như đều khắp trên địa bàn vùng đất Nam Bộ. Thời kỳ này xuất hiện một số trung tâm  như nhóm di tích Óc Eo – Ba Thê gồm Linh Sơn Nam - Đá Nổi – Giồng Xoài. Những trung tâm này được sử dụng liên tục kéo dài nhiều thời kỳ lịch sử với dấu vết để lại là các kiến trúc luôn được trùng tu tôn tạo.Tháp thờ xuất hiện muộn vào thế kỷ VIII - X.Tháp được xây chủ yếu bằng vật liệu bền vững ( gạch nung), quy mô không lớn, mặt bằng kiến trúc hình vuông, thích ứng với loại hình kiến trúc này , một số bộ phận kiến trúc xuất hiện như mi cửa, cột cửa, tấm ốp cửa với vật liệu mới như đá, hay các bộ phận kiến trúc được trang trí như vòm cửa, cột cửa, áp tường vv.. Những tháp còn lại cho đến nay: Bình Thạnh ; Chóp Mạt, Vĩnh Hưng đều có niên đại vào thế kỷ IX – X. Những kiến trúc tháp này thường xuất hiện trên các vùng đất cao Đông Nam Bộ hay tiếp giáp các vùng núi chân Cao Nguyên  như Chóp Mạt, Bình Thạnh; Cát Tiên. Loại hình tháp xuất hiện dưới đồng bằng rất hiếm hoi như tháp Vĩnh Hưng. Sự xuất hiện của kiến trúc tháp thờ bên cạnh các đền thờ vẫn tiếp tục được sử dụng hay tu bổ xây dựng thu hẹp lại trên nền móng cũ của các di tích giai đoạn trước, hình thành hai loại hình kiến trúc tôn giáo tồn tại song song trên vùng đất. Điều này phù hợp với quy luật chung trong tiến trình phát triển  các kiến trúc tôn giáo ảnh hưởng từ văn hóa Ấn Độ  ở nước ta như Champa. Những kiến trúc đền thờ có mặt sớm thường có quy mô khá lớn, mặt bằng hình chữ nhật, được xây dựng kết hợp giữa vật liệu bền vững như gạch và kém bền vững như gỗ lá.  Những kiến trúc này  có nguồn gốc từ những cơ sở tín ngưỡng  ban đầu của cư dân vùng đất sau hội nhập với văn hóa tôn giáo Ấn Độ tạo nên. Chính vì thế sự can thiệp của tự nhiên khiến những kiến trúc này thường bị hư hại. Những thế kỷ sau, do sự phát triển của kỹ thuật xây dựng, vật liệu kiến trúc, các đền thờ  được xây dựng  thu hẹp, mặt bằng hình vuông, vật liệu là gạch đất nung bền vững nên một số kiến trúc còn tồn tại cho đến ngày nay.
- Tính chất tôn giáo của các di tích có sự thống nhất, ổn định, kéo dài trong lịch sử. Những di vật tìm được trong các di tích hầu hết mang nội dung tôn giáo, sử dụng nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau. Sự kế thừa của giai đoạn sau ngoài kiến trúc bị thu hẹp lại do nhu cầu tín ngưỡng thì sự xuất hiện các vật thờ mang đặc trưng của thời đại như Linga- Yony, tượng thờ giai đoạn sau xuất hiện bên cạnh những vật thờ của giai đoạn trước đó. Những địa điểm tôn giáo thường được coi là vùng đất thiêng, địa điểm thiêng, tạo nên không gian thiêng, trong đó có các vật thiêng thuộc về các thần cho nên những địa điểm  này được duy trì lâu dài, được các thế hệ kế tiếp nhau giữ gìn và cả những nhóm người khác khi đến vùng đất cư trú vẫn duy trì. Nhiều địa điểm tính chất tôn giáo của nó còn được giữ cho đến ngày nay.
- Do hoàn cảnh lịch sử chi phối, các di tích ở đây thường có niên đại chủ yếu từ sau thế kỷ VII đến thế kỷ XI, tiếp nối truyền thống văn hóa Óc Eo, những di tích có niên đại muộn rất hiếm hoi bởi vai trò của vùng đất mờ dần khi nền văn minh ĂngKo tỏa sáng. Nguyên nhân sự vắng mặt của các di tích được xây dựng có niên đại muộn có nhiều cách lý giải, trong đó  nguyên nhân chủ yếu do sự biến đổi của khí hậu sau đợt biển tiến Flandrian cuối cùng đã nhấn chìm toàn bộ vùng đồng bằng thấp của hạ lưu sông Mê Kông dưới 1,0m nước biển vào thế kỷ VI – VII. Từ năm 50BC đến năm 550AD mực nước biển ở vùng Nam bộ thấp hơn mức nước biển ngày nay khoàng 0,5m. Từ năm 550AD đến năm 1150AD nước biển dâng cao hơn mực nước biển ngày nay khoảng 1,0m đã nhấn chìm phần lớn vùng đất này. Với mực nước biển cao hơn ngày nay khoảng 1,0m khiến vùng đất Nam bộ bị ngập chìm, biến nhiều vùng thành đầm lầy nước đọng, dần bị bỏ hoang hóa. Chủ nhân vùng đất, một bộ phận trở thành những nhóm người sinh sống biệt lập dần rơi vào tình trạng kém phát triển, một số nhóm người rút về sinh sống trên các vùng đất cao Bảy núi, Tịnh Biên; Tri tôn, đông Nam Bộ, hay xa hơn là vùng đệm cao nguyên Lâm Đồng, bỏ lại sau lưng một nền văn minh dần tàn lụi. .Ngoài các di tích kiến trúc đã biết, hiện nay khi tiếp cận các nhà nghiên cứu còn biết đến hơn 20 địa điểm tìm được các tác phẩm điêu khắc có nội dung thể hiện Phật giáo và Hindu giáo trên địa bàn Nam Bộ có niên đại sau thế kỷ VII đến thế kỷ XIV(1). Nhưng những tác phẩm này có liên quan đến di tích hay không, đó là vấn đề vẫn để ngỏ. Phân bố di tích trên chỉ giới hạn  với các di tích kiến trúc đã được phát hiện và khai quật khảo cổ học trong những năm đã qua. Từ những phát hiện đó có thể cho thấy một số những đặc trưng cơ bản sau:
- Phân bố di tích khá đồng đều trên mọi vùng đất; nhưng  có thể chia làm hai nhóm. Nhóm dưới đồng bằng các di tích không tập trung, được xây dựng rải đều trên các địa bàn, nhưng  có quy mô lớn, được xây dựng trên các gò đất. Giồng đất cao, thường trên 2m so với mực nước biển ngày nay. Nhóm này về  mặt bằng kiến trúc  cho thấy đây là loại hình  đền thờ thường có mặt sớm và được sử dụng lại đến sau này.
-  Dựa vào quy mô kiến trúc có thể thấy, về loại hình di tích có hai loại: đền thờ và tháp thờ. Đền thờ là loại hình kiến trúc chủ yếu được xây dựng có mặt trước thế kỷ VII, thường chỉ còn lại phần móng xây gạch với quy mô lớn,  mặt bằng kiến trúc hình chữ nhật, được phân bố khá rộng có mặt hầu hết trên địa bàn các di tích ở Nam Bộ. Tại các di tích này thường có mặt các tác phẩm điêu khắc tôn giáo có niên đại sớm. Về phân bố dấu vết di tích loại hình đền thờ có mặt hầu như đều khắp trên địa bàn vùng đất Nam Bộ. Thời kỳ này xuất hiện một số trung tâm  như nhóm di tích Óc Eo – Ba Thê gồm Linh Sơn Nam - Đá Nổi – Giồng Xoài. Những trung tâm này được sử dụng liên tục kéo dài nhiều thời kỳ lịch sử với dấu vết để lại là các kiến trúc luôn được trùng tu tôn tạo.Tháp thờ xuất hiện muộn vào thế kỷ VIII - X.Tháp được xây chủ yếu bằng vật liệu bền vững ( gạch nung), quy mô không lớn, mặt bằng kiến trúc hình vuông, thích ứng với loại hình kiến trúc này , một số bộ phận kiến trúc xuất hiện như mi cửa, cột cửa, tấm ốp cửa với vật liệu mới như đá, hay các bộ phận kiến trúc được trang trí như vòm cửa, cột cửa, áp tường vv.. Những tháp còn lại cho đến nay: Bình Thạnh ; Chóp Mạt, Vĩnh Hưng đều có niên đại vào thế kỷ IX – X. Những kiến trúc tháp này thường xuất hiện trên các vùng đất cao Đông Nam Bộ hay tiếp giáp các vùng núi chân Cao Nguyên  như Chóp Mạt, Bình Thạnh; Cát Tiên. Loại hình tháp xuất hiện dưới đồng bằng rất hiếm hoi như tháp Vĩnh Hưng. Sự xuất hiện của kiến trúc tháp thờ bên cạnh các đền thờ vẫn tiếp tục được sử dụng hay tu bổ xây dựng thu hẹp lại trên nền móng cũ của các di tích giai đoạn trước, hình thành hai loại hình kiến trúc tôn giáo tồn tại song song trên vùng đất. Điều này phù hợp với quy luật chung trong tiến trình phát triển  các kiến trúc tôn giáo ảnh hưởng từ văn hóa Ấn Độ  ở nước ta như Champa. Những kiến trúc đền thờ có mặt sớm thường có quy mô khá lớn, mặt bằng hình chữ nhật, được xây dựng kết hợp giữa vật liệu bền vững như gạch và kém bền vững như gỗ lá.  Những kiến trúc này  có nguồn gốc từ những cơ sở tín ngưỡng  ban đầu của cư dân vùng đất sau hội nhập với văn hóa tôn giáo Ấn Độ tạo nên. Chính vì thế sự can thiệp của tự nhiên khiến những kiến trúc này thường bị hư hại. Những thế kỷ sau, do sự phát triển của kỹ thuật xây dựng, vật liệu kiến trúc, các đền thờ  được xây dựng  thu hẹp, mặt bằng hình vuông, vật liệu là gạch đất nung bền vững nên một số kiến trúc còn tồn tại cho đến ngày nay.
- Tính chất tôn giáo của các di tích có sự thống nhất, ổn định, kéo dài trong lịch sử. Những di vật tìm được trong các di tích hầu hết mang nội dung tôn giáo, sử dụng nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau. Những địa điểm tôn giáo thường được coi là vùng đất thiêng, địa điểm thiêng, tạo nên không gian thiêng, trong đó có các vật thiêng thuộc về các thần cho nên những địa điểm  này được duy trì lâu dài, được các thế hệ kế tiếp nhau giữ gìn và cả những nhóm người khác khi đến vùng đất cư trú vẫn duy trì. Nhiều địa điểm tính chất tôn giáo của nó còn được giữ cho đến ngày nay.
- Do hoàn cảnh lịch sử chi phối, các di tích ở đây thường có niên đại chủ yếu từ sau thế kỷ VII đến thế kỷ XI, tiếp nối truyền thống văn hóa Óc Eo, những di tích có niên đại muộn rất hiếm hoi bởi vai trò của vùng đất mờ dần khi nền văn minh ĂngKo tỏa sáng. Nguyên nhân sự vắng mặt của các di tích được xây dựng có niên đại muộn có nhiều cách lý giải, trong đó  nguyên nhân chủ yếu do sự biến đổi của khí hậu sau đợt biển tiến Flandrian cuối cùng đã nhấn chìm toàn bộ vùng đồng bằng thấp của hạ lưu sông Mê Kông dưới 1,0m nước biển vào thế kỷ VI – VII. Từ năm 50BC đến năm 550AD mực nước biển ở vùng Nam bộ thấp hơn mức nước biển ngày nay khoàng 0,5m. Từ năm 550AD đến năm 1150AD nước biển dâng cao hơn mực nước biển ngày nay khoảng 1,0m đã nhấn chìm phần lớn vùng đất này. Với mực nước biển cao hơn ngày nay khoảng 1,0m khiến vùng đất Nam bộ bị ngập chìm, biến nhiều vùng thành đầm lầy nước đọng, dần bị bỏ hoang hóa. Chủ nhân vùng đất, một bộ phận trở thành những nhóm người sinh sống biệt lập dần rơi vào tình trạng kém phát triển, một số nhóm người rút về sinh sống trên các vùng đất cao Bảy núi, Tịnh Biên; Tri tôn, đông Nam Bộ, hay xa hơn là vùng đệm cao nguyên Lâm Đồng, bỏ lại sau lưng một nền văn minh dần tàn lụi. Vào thế kỷ XVIII vùng đất này được Lê Quý Đôn viết “  đất Đồng Nai từ các cửa biển Cần Giờ,Soài Lạp,cửa Đại, cửa Tiểu toàn là rừng rậm hàng mấy nghìn dặm…” hay sau này Phan Huy Chú cũng viết “ đất Đồng Nai từ Đại Hải môn và Tiểu Hải môn ở tính trạch Sài Gòn trở vào toàn là rừng rậm đến hơn mấy nghìn dặm…”    
Từ hiện tượng tự nhiên can thiệp đã nêu, hiện trạng vùng đất Nam Bộ  khi người Việt vào khai phá” mở cõi”   được ghi chép trong lịch sử và đặc biệt là hiện trạng các di tích văn hóa được tìm thấy phát hiện khai quật khảo cổ học cho thấy đa phần đều có niên đại sớm tương đương với thời kỳ lịch sử nhà nước Phù Nam thế kỷ II – VII. Những di tích có niên đại tương đương với lịch sử Chân Lạp thường rất ít, kế thừa trên nền tảng các di tích thuộc thời kỳ Phù Nam.  Vào thế kỷ VI mực nước biển đã dâng, những nhóm người Phù Nam bắt đầu có sự phân tán, những di tích xây dựng tại  vùng đất trũng mất vai trò; những di tích được xây dựng trên vùng đất cao được tiếp tục duy trì tồn tại. Sự kế thừa của Chân Lạp tiếp nối Phù Nam  diễn ra trong bối cảnh  có sự can thiệp của tự nhiên khi vùng đất trũng ( Nam Bộ) của Phù Nam đã rơi vào cảnh ngập lụt cho nên địa dư Chân Lạp khó liên quan đến vùng đất này.Sau thế kỷ VIII nước Chân Lạp lại chia làm hai mà Đường thư ghi là Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp. Lục Chân Lạp ở trên vùng đất cao vẫn giữ được sự ổn định cử sứ thần sang nhà Đường vào các năm 717,753, 771,779, còn Thủy Chân lạp bước vào thời kỳ tản quyền cho đến nay chưa rõ tên một ông vua nào hay chính quyền nào. Chu Đạt Quan khi đến Chân Lạp cho biết nước này có đến 9 nước chính quyền chư hầu chịu ảnh hưởng của Chân Lạp, làng nào cũng có điện thờ hoặc tháp thờ. Vùng đất này lại chịu hai lần cướp phá của người Giava vào các năm 774,778. Chính vì thế khi nghiên cứu đã có ý kiến “ Thật là rất nhầm nếu hiểu Thủy Chân Lạp là đất Phù Nam cũ, là đồng bằng sông Cửu Long, bởi vì thực ra Thủy Chân Lạp chủ yếu là vùng trung lưu sông MêKoong mà trung tâm là Sambhupura ở Sambor, Kompong Cham là một thời phân tán tản quyền. Những dấu tích Khmer trên khắp đồng bằng sông Cửu Long có trước năm 802 là không đáng kể”( Lương Ninh-2005).

Bản đồ những địa điểm có tác phẩm nghệ thuật ở đồng bằng Nam Bộ
( Nguồn Lê Thị Liên)
So sánh số lượng di tích được thể hiện trên bản đồ có niên đại vào thế kỷVII – XIV với bản đồ số lượng các di tích có trước thế kỷ X cho thấy mật độ di tích giảm hẳn đi. Những di tích này cơ bản thuộc về văn hóa Óc Eo mà thời kỳ gọi là hậu Óc Eo chỉ còn lại những di tích trên vùng gò đồi cao và tạp trung chủ yếu trên vùng đất ven các dãy núi. Những di tích tìm được cho biết, các di tích này ở đồng bằng sông Cửu Long cũng không thuộc Thủy Chân Lạp, nó vốn có từ thời Phù Nam. Sau này do điều kiện mực nước dâng cao, chủ nhân các di tích này phân thành những nhóm, nhóm ở lại duy trì các kiến trúc tôn giáo còn lại trong điều kiện khó khăn, xây dựng các kiến trúc mới có ảnh hưởng từ bên ngoài đưa vào như tháp Vĩnh Hưng. Nhóm lên vùng cao xây dựng các di tích tôn giáo mới mang truyền thống văn hóa cũ, có tiếp thu những yếu tố mới của văn hóa bên ngoài tạo nên một gương mặt mới khá riêng biệt như các tháp Chóp Mạt, Bình Thạnh.. Đặc biệt di tích kiến trúc ở Cát Tiên bên cạnh yếu tố của truyền thống văn hóa Óc Eo là chủ đạo (các hiện vật thờ Linga - Yony, tượng Ganesa, trang trí trên các lá vàng vv..) thì các yếu tố văn hóa bên ngoài ảnh hưởng đến rõ nét như văn hóa Champa ( kỹ thuật xây dựng, vật liệu, điêu khắc gạch trang trí kiến trúcvv..), văn hóa Chân Lạp (trang trí cột cửa, mi cửa …) tạo nên nét đặc thù riêng, mang bản sắc riêng mà chủ nhân khu di tích cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Nhưng Cát Tiên vẫn là Cát Tiên chính nó không thuộc Champa cũng không thuộc Chân Lạp. Phải chăng khu di tích này là ảnh sạ cuối cùng lóe sáng của nền văn hóa Óc Eo đã tắt?
Như vậy, xét về  địa lý do biến đổi khí hậu, vùng đất này sau thời kỳ Phù Nam hầu như bị nhấn chìm, chỉ còn sót lại những gò cao, những vùng chân núi, vùng núi. Không gian sống bị thu hẹp  dẫn đến sự thay đổi về kinh tế, hệ quả khiến cho văn hóa giai đoạn Phù Nam đã có thời kỳ phát triển thịnh vượng nay dần tàn lụi, cộng đồng cư dân buộc phải thích nghi với điều kiện mới. Về  nội dung di tích có thể thấy các di tích có mặt trên vùng đất đồng bằng Nam Bộ sau thế kỷ VII chỉ là sự kế thừa của các di tích có thời kỳ trước đó, thuộc văn hóa Phù Nam.  Các kiến trúc chủ yếu là loại hình đền thờ, khác hẳn các kiến trúc của Chân Lạp chủ yếu là loại hình kiến trúc tháp. Hiện vật thờ lấy thờ Linga – Yony làm trọng tâm, khác với vật thờ thuộc văn hóa Chân Lạp thờ tượng làm chính. Những kiến trúc tháp như Bình Thạnh, Chóp Mạt, Vĩnh Hưng, có yếu tố ảnh hưởng của tháp Chân Lạp ( Sambo Prei KuK) nhưng cũng có yếu tố của Champa. Đó là sự tiếp thu văn hóa của cộng đồng cư dân ở đây với các nền văn hóa xung quanh. Nhưng nó vẫn có nét riêng, truyền thống riêng.  Có thể thấy các di tích sau thế kỷ VII ở đồng bằng Nam Bộ không thuộc Chân Lạp, cũng không phải Thủy Chân Lạp  mà là nhóm di tích  của cộng đồng cư dân ở đây kế thừa từ truyền thống văn hóa Phù Nam, hay óc Eo được giữ gìn trong điều kiện mới. Đó chính là nội dung của các di tích ở đồng bằng Nam Bộ được đề cập đến
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục. NXB KHXH. Hà Nội 1977
- Lê Xuân Diệm- Đào Linh Côn – Võ Sĩ Khải: văn hóa Óc Eo những khám phá mới. NXB KHXH. Hà Nội 1995
- Một số vấn đề Khảo cổ học ở miền nam Việt Nam. NXB KHXH. Hà Nội 2004
-  Một số vấn đề Khảo cổ học ở miền nam Việt Nam. NXB KHXH. Hà Nội 2008
- Lương Ninh: Vương quốc Phù Nam – Lịch sử và văn hóa. NXB Văn hóa& Viện Văn hóa- Hà Nội 2005
- Lê Đình Phụng: Di tích Cát Tiên ( Lâm Đồng): Lịch sử và Văn hóa. NXB KHXH. Hà Nội 2007
- Lê Thị Liên: Nghệ thuật Phật giáo và Hindu giáo ở đồng bằng sông cửu long trước thế kỷ X. Luận án TS lịch sử - 2003. Tư liệu Viện KCH
- Bùi Chí Hoàng- Đào Linh Côn: Báo cáo sơ bộ khai quật tháp Cổ Vĩnh Hưng ( Bạc Liêu).Tư liệu viện KHXH Thành Phố HCM -2002
- Võ Sĩ Khải và Piere-Yvesmanguin: Báo cáotoms tắt cuộc khai quật khảo cổ học hợp tác Việt – Pháp năm 1999. Tư liệu viện KHXH thành phố HCM
- Võ Sĩ Khải- Đào Linh Côn – Nguyễn Văn Long: Tiếp tục khai quật tại khu di tích Óc Eo-Ba Thê( xã Vọng Thê huyện Thoại Sơn tỉnh An Giang. NPHMVKCH . Hà Nội 1999
- Nguyễn Duy Tỳ: Báo cáo sơ bộ khai quật di tích Linh Sơn 1. Tư liệu viện KHXH Thành Phố HCM – 1998
 Võ Sĩ Khải- Đào Linh Côn- Nguyễn Duy Tỳ: Khai quật nhóm di tích Linh Sơn( Khu Óc Eo – Ba Thê – An Giang). NPHMVKCH . Hà Nội 1999
-         Lê Xuân Diệm- Phạm Quang Sơn- Bùi Chí Hoàng: Khảo cổ học Đồng Nai. Đồng Nai 1991
-         Nguyễn Hải Bạch:Những phát hiện mới về văn hóa Óc Eo. NPHMVKCH. Hà Nội 1991
-          Đào Linh Côn:
* Khai quật di tích kiến trúc Lưu Cừ, huyện Trà Cú ( Cửu Long). NPHMVKCH Hà Nôi 1991
 *Khai quật di tích Gò Thành. NPHMVKCH Hà Nội 1989
 * Báo cáo sơ bộ khai quật di tích Linh Sơn 3. Tư liệu viện KHXH Thành Phố HCM -1998
- Lê Xuân Diệm – Võ Sĩ Khải: Khảo cổ học với việc nghiên cứu Phù Nam. NPHMVKCH. Hà Nội 1977
-Lê Xuân Diệm:
* Khai quật khu di tích Ba Thê – Óc Eo. NPHMVKCH . Hà Nội 1983
*  Về những kiến trúc cổ ở Tây Ninh. NPHMVKCH . Hà Nội 1989
- Nguyễn Thị Đấu: Địa điểm khảo cổ Gò Thành ( Tiền Giang). NPHMVKCH . Hà Nội 1988
-  Võ Sĩ Khải:
*Khu di tích khảo cổ học Gò Tháp  ( Đòng Tháp). NPHMVKCH . Hà Nội 1984
* Nghiên cứu văn hóa khảo cổ học óc Eo: Mười năm nhìn lại.T/C KCH số 4-1985
* Khu di tích Cạnh đền ( Kiên Giang). NPHMVKCH . Hà Nội 1988
-  Nguyễn văn Long:Điều tra các di tích khảo cổ học thuộc tỉnh Long An. NPHMVKCH . Hà Nội 1988
- Nguyễn Đức Lưu – Bùi Phát Diệm:
* Thám sát một số di tích thuộc văn hóa Óc Eo ở Đồng tháp Mười. NPHMVKCH . Hà Nội 1989
* Khai quật di tích kiến trúc Trâm Quỳ thuộc văn hóa Óc Eo. NPHMVKCH . Hà Nội 1990
- Phạm Văn Sĩ: Đào thám sát tháp Gạch Vĩnh Hưng ( Minh Hải). NPHMVKCH . Hà Nội 1987.
- Nguyễn Duy Tỳ:
* Đào thăm dò khảo cổ Gò Minh Sư ( Đồng Tháp). NPHMVKCH . Hà Nội 1984
 *Di tích văn hóa óc Eo ở tỉnh Cửu Long. NPHMVKCH . Hà Nội 1986