Thứ Hai, 28 tháng 12, 2015

DẤU ẤN VĂN HÓA ẤN ĐỘ Ở MIỀN TRUNG- VIỆT NAM
                Trong những công trình nghiên cứu hiện biết, nhiều nguồn tài liệu cho thấy mối giao lưu quan hệ văn hóa giữa các vùng Đông Nam Á với Ấn Độ có từ lâu trong lịch sử trong đó có miền Trung Việt Nam. Ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ vào Đông Nam á xuất phát từ nhu cầu thương mại có truyền thống lâu đời từ những năm trước công nguyên. Nhu cầu thương mại chính trong con đường  buôn bán đó là vàng và hương liệu và Đông Nam Á được coi " một xứ sở đầy vàng ở bên kia đại dương".
Miền Trung Việt Nam ở vị trí nằm trên con đường thương mại biển thuận lợi với sản vật phong phú  giàu khoáng sản vàng, nhiều trầm hương, sản phẩm nhiệt đới quý đã trở thành vùng đất hấp dẫn cho các thương nhân Ấn đến trao đổi buôn bán.
 Sự giao lưu càng được tăng cường khi họ phát hiện ra được quy luật của gió mùa trong quá trình vượt biển đến buôn bán với các nước vùng Đông Nam á. Trong khi đó những thế kỷ trước công nguyên người Ấn buôn bán vàng chủ yếu với La Mã thì đầu công nguyên con đường này bị cấm. Họ  quay sang tìm mua vàng và hương liệu ở Đông Nam á. Chịu ảnh hưởng chi phối của gió mùa, khi đến Đông Nam á mua hàng họ thường phải chờ đợi gió thuận khi trở về, trong thời gian đó họ xây dựng các thương điếm, tạo cơ sở đứng chân buôn bán lâu dài và truyền bá văn hoá, tôn giáo của họ tới các cộng đồng cư dân địa phương. Trong các thương điếm được dựng xây có những cơ sở tín ngưỡng của họ. Đây có thể coi là những cơ sở tôn giáo đầu tiên của Ấn Độ trên các nước khu vực Đông Nam á trong đó miền Trung Việt Nam.
Dấu ấn để lại thời kỳ này trong văn hoá Sa Huỳnh ở miền Trung cho biết cư dân nơi đây đã có mối liên hệ giao lưu trao đổi với văn hoá Ấn Độ. Những sản phẩm đồ trang sức bằng thuỷ tinh, mã não, đá ngọc tìm được trong văn hoá Sa Huỳnh, đồ gốm tìm được ở Trà Kiệu là những bằng chứng đầu tiên về mối giao lưu đó. Bước vào thời kỳ lịch sử, kế thừa con đường thương mại đó, khi người Chăm giành được độc lập, văn hóa Ấn Độ có điều kiện phát triển và trở thành dòng chảy chính tạo nên diện mạo văn hóa trên vùng đất.
Trước hết có thể thấy, bên cạnh sự có mặt của văn hóa Ấn Độ trên dải đất miền Trung  còn có sự ảnh hưởng từ văn hóa Trung Hoa. Các di tích văn hóa Sa Huỳnh  di vật có nguồn gốc Trung Hoa xuất hiện khá phổ biến, gương đồng, dao thời Tây Hán, đồ gốm Hán, tiền ngũ thù đã có mặt. Đặc biệt nhà Hán đã đặt được quận huyện cai trị trên vùng đất bắc miền Trung (quận Nhật Nam). Sau thế kỷ II (năm 192), người Chăm giành được độc lập dựng nên nhà nước tự chủ (Lin Y - Lâm Ấp) họ đã chọn mô hình xã hội, tinh thần Ấn Độ để xây dựng nên nền văn hóa của mình và tồn tại đến khi hội nhập chung vào lãnh thổ dân tộc.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, người Chăm đã chọn mô hình văn hóa Ấn Độ, kết hợp với tầng nền văn hóa bản địa để tạo nên văn hóa Champa.“ Dân tộc Chàm đồng hoá nhanh với nền văn minh ấy; họ theo tôn giáo và phong tục, chữ viết và tư tưởng; hành chính và pháp luật của nền văn minh ấy”. Dấu ấn sớm nhất của văn hóa Ấn Độ để lại trên miền Trung là bia Võ Cạnh (Khánh Hòa) " viết bằng chữ Phạn đúng cách, cho ta thấy rằng họ chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền văn minh Ấn Độ". “ bia Võ Cạnh  là một dạng Sankrít có nguồn gốc Tamul. Tên gọi Srimara tức là Paramara hay maran là một tước vua của người xứ Pandya, mà rất có thể là người xứ này đến lập nghiệp ở Kauthara (Nha Trang) đã có ý muốn gợi nhớ lại dòng giống Pandya của mình khi khắc bia Võ Cạnh làm kỷ niệm ”. Niên đại bia vào thế kỷ II - IV.
Sau đó là các bia ký: Mỹ Sơn I, Hòn Cục, Chiêm Sơn (Quảng Nam); chợ Dinh ( Phú Yên) có niên đại vào thế kỷ V đã cho biết sự phổ biến của nền văn hóa Ấn Độ trong văn hóa Champa.
Từ sự lựa chọn ban đầu đó, cho đến nay người Chăm đã đưa tinh thần và văn hóa Ấn Độ để lại trên mọi hoạt động, phương thức sống của mình và tồn tại cho đến ngày nay.Với di sản văn hóa Champa đồ sộ để lại gồm vật thể và phi vật thể có thể thấy dấu ấn văn hóa Ấn Độ để lại vô cùng phong phú trên mọi lĩnh vực. Khai thác nguồn tư liệu vật thể: văn bia, kiến trúc, điêu khắc cho thấy những yếu tố văn hóa thấm đậm tinh thần Ấn Độ:
1.Tài liệu văn bia :
Theo thống kê của các học giả người Pháp vào năm 1923, số bia ký Chăm đã được biết là 170( đánh số từ C1 đến C170) , tất cả các bia ký Chăm đều được khắc lên đá thành những tấm bia to và đẹp và một số bia ký khác được khắc lên tường của các tháp Chăm. Cho đến nay có gần 200 bia ký Champa được biết đến trong đó có khoảng số 130 bia ký có thể hiểu được nội dung thì 94 bia nói về Siva giáo, 5 bia về thần Brahma, 3 bia về thần Visnu, 7 bia về đức Phật và 21 bia không rõ về về tính tôn giáo.[1]. Văn bia được coi như nguồn sử liệu tin cậy cung cấp tư liệu nhiều mặt về đời sống xã hội và văn hoá của người Chăm trong lịch sử.
1.1 Địa danh lịch sử:
Theo nguồn tư liệu lịch sử, tên gọi vương quốc cổ Champa có nguồn gốc từ một tên gọi vùng đất Ấn Độ- tên thành phố thuộc lãnh địa của Đại đế Bimbisara và " Dường như những ngưới Ấn định cư tại Việt Nam đã đến từ vùng Champa (tức Bhagalpur, thuộc bang Bihar" [2]. Tên gọi Champa (Campapura) “ đấng SriSambhubhađrêxvara oai linh …trong thánh thi vận hạnh của Campa” hay “ …con đường đi tới nguồn hạnh phúc cho xứ xở Campa”[3] được người Chăm sử dụng trong các bi ký của mình dù lịch sử bên ngoài ghi chép tên quốc gia cổ ấy là Lâm Ấp ( Lin Y); Hoàn Vương, Chiêm Thành vv...Tên gọi đó chỉ khác nhau trong các thời điểm lịch sử. Có tên gọi khác nhau, đó là từ những tư liệu lịch sử “đứng bên lề” ghi lại theo mỗi phân kỳ lịch sử, còn trong bia ký Champa tên gọi Campa hầu như là danh chính của nhà nước cổ này được ghi chép qua nhiều thế kỷ. Chính vì thế, cho đến nay tên gọi Champa là định danh  được nhiều nhà khoa học thừa nhận.
Tên gọi các vùng đất Champa, theo các nguồn tư liệu cho biết, Champa chia thành nhiều vùng khác nhau với các tên gọi có nguồn gốc Ấn Độ:
Châu Amaravati, Vijaya; Kauthara, Panduranga là những tên gọi có nguồn gốc xuất phát từ những vùng đất Ấn Độ, ví dụ như Amaravati (bang Andhra Pradesh).
Những tên gọi kinh đô như Simhapura, Indrapura, Vijaya, Virapura đều gắn với sự tích liên quan, ảnh hưởng từ văn hóa Ấn Độ.
1.2. Cấu trúc xã hội
Theo tài liệu bia ký, cư dân Champa chia làm 4 nhóm:
- Ba la môn là tầng lớp tăng lữ cao quý nhất, người chăm sóc tinh thần của cộng đồng. Vua  Champa xuất thân “ là con trai của một người Balamôn xuất sắc..”,và “ không có một tội ác nào lớn hơn tội giết một vị Balamôn”1 .
- Ksatriya  là tầng lớp trên và được coi là cao quý trong xã hội Champa.
- Vaishya là tầng lớp bình dân đông đảo trong cư dân
- Shudra là tầng lớp nô lệ. Văn bia Champa nói đến việc nhà vua dâng cúng cho các vị thần được thờ ngoài đồ vật kim loại quý, còn có nô lệ phục vụ thần.
Như vậy mô hình cấu trúc cư dân Chăm cũng được phân ra theo mô hình cấu trúc tầng lớp cư dân xã hội Ấn Độ. Văn hóa Ấn Độ đã ảnh hưởng hết sức sâu sắc trong việc tổ chức cư dân Champa.  Cư dân chia thành nhiều đẳng cấp, trong đó đẳng cấp Bhama và Ksatriya là tầng lớp trên năm giữ tinh thần và tổ chức quản lý xã hội.
1.3. Danh xưng:
Tên các vị vua sáng lập các triều đại trong lịch sử Champa đều gọi theo tên Ấn Độ
Theo Bia Võ Cạnh vị vua được coi đầu tiên là CriMara. Bia Mỹ Sơn I vua là Sambhuvarman. Sau này là các vị vua: Vijayavarman; Gangaraja;  Rudravarman; Vikrantavarman; Indravarman vv... đều lấy danh xưng theo tên gọi có nguồn gốc văn hóa Ấn.
1.4. Lịch pháp
 Lịch pháp Champa sử dụng theo lịch pháp có nguồn gốc Ấn Độ.Văn bia Champa còn ghi lại năm tháng tạo dựng theo lịch Saka, lịch do vua Phật giáo Kaniska sáng lập sau năm 78 sau công nguyên.
1.5. Văn tự:
Chữ viết trên các văn bia đều lấy nguồn gốc từ văn tự Ấn Độ. Đến thế kỷ IX văn tự cổ Champa xuất hiện cũng xuất phát từ nguồn gốc văn tự Ấn Độ (Sanskrits).
1.6. Ngoài những  yếu tố trên văn bia Champa còn cung cấp thêm những kiến thức về thiên văn học, đơn vị đo lường, sự tích văn học lấy từ nguồn cảm hứng có nguồn gốc từ văn hóa Ấn Độ.
2. Kiến trúc:
Trải qua những biến động xã hội và thiên nhiên can thiệp, cho đến nay, miền Trung còn lại một hệ thống kiến trúc tháp Champa với số lượng lớn trên 60 địa điểm trên mọi vùng khác nhau. Niên đại xây dựng kéo dài trong lịch sử. Nghiên cứu hệ thống kiến trúc tháp hiện còn cho thấy:
 Tháp Champa được dựng lên là cơ sở tôn giáo thờ các vị thần mang nội dung tôn giáo Ấn Độ. Chính vì thế, mô hình và mặt bằng kiến trúc tháp đều chuyển tải nội dung Ấn Độ giáo, biểu tượng cho núi Meru nơi ngự trị của thần linh. Trong một quần thể kiến trúc, kiến trúc trung tâm chính- điện thờ thần, bao giờ cũng cao và có quy mô lớn nhất, xung quanh là hệ thống kiến trúc phụ thấp dần. Mặt bằng kiến trúc tháp được coi có biểu tượng như hình Yony- mặt âm của thần Shiva, kiến trúc nhô cao được coi được coi là biểu tượng Linga - mặt dương của thần Shiva.  Khối của kiến trúc tháp có tỉ lệ thích hợp  với đế tháp đồ sộ vững trãi, thân khối vuông vức vươn cao, hệ thống cửa ra vào, cửa giả trang trí cân đối. Hệ thống diềm  mái phân biệt thân và nóc kiến trúc nhiều lớp nhịp nhàng. Nóc tháp gồm nhiều tầng thu nhỏ lên trên, mỗi tầng là mô hình thu nhỏ của thân tháp và kết thúc đỉnh tháp là biểu tượng Linga. Tỉ lệ các phần cân đối hài hòa tạo nên nhịp điệu kiến trúc nhịp nhàng, sang trọng. Tháp được xây dựng chủ yếu bằng gạch, kỹ thuật xây khó thấy mạch cùng chất kết dính. Trang trí tháp hoàn chỉnh từ đế tháp đến các khối kiến trúc hài hòa, chuyển tải nội dung liên quan đến các vị thần được thờ. Kỹ thuật khắc tạc điêu luyện với nhận thức thẩm mỹ cao." Tháp Chăm ở Việt nam chính là một mô hình thu nhỏ về kiểu dáng của các ngôi đền ở phía Nam Ấn Độ...Chúng giống nhau đến nỗi dường như bí quyết về kỹ thuật chế tạo gạch và nghệ thuật xây gạch dính sát với nhau ở Việt Nam đã được nhập khẩu từ Ấn Độ"1
.
3. Điêu khắc.
Cho đến nay hàng nghìn tác phẩm điêu khắc Champa được phát hiện, tiêu biểu cho các giai đoạn nghệ thuật điêu khắc Champa trong các thời kỳ khác nhau có mặt trong các bảo tàng lớn trong và ngoài nước, tiêu biểu là Bảo tàng điêu khắc đá Champa (Đà Nẵng).
Nội dung các tác phẩm điêu khắc này đều mang nội dung tôn giáo và văn hóa Ấn Độ. Trước hết là hệ thống bệ thờ được chế tác thờ trong lòng các tháp. Linh vật thờ chủ yếu là biểu tượng của thần Shiva - một trong ba vị thần chính của Ấn Độ giáo.  Biểu tượng này xuyên xuốt nội dung thờ trong văn hóa Champa. Có thể lấy hai tác phẩm sớm và muộn nhất trong các tháp thờ Champa. Bệ thờ Mỹ Sơn E1 vào thế kỷ VII. Trang trí bệ thờ là các hình ảnh tu luyện của các tu sĩ theo giáo lý tôn giáo. Biểu tượng thờ là Linga. Bệ thờ tháp Porome thế kỷ XVII vật thờ là Yony - Linga có tạc Mukhalinga.
Hệ thống thần linh trong Ấn Độ giáo đều được thể hiện trong các tác phẩm điêu khắc với 3 vị thần chính: Shiva- Visnu- Bhrama.
Thần Bhrama
Ngoài 3 vị thần chính còn có cả hệ thống thần linh như thần Inđra (thần Sấm sét); thần Surya (thần mặt trời); thần lửa (Agnhi), thần gió (Vayu),thần biển (Varuna); thần mặt trăng (Soma); thần Rừng (Yaksa); thần chết hay Diêm vương (Yama); thần Tài Lộc (Kubera); các vị thần phương hướng (Lokapara); thần thời gian (KaLa); thần thần chiến tranh (Skanda); thần bảo vệ (Drapalla); thiên thần vũ nữ (Appsara); nữ thần may mắn (Laksmi);nữ thần nghệ thuật (Sarasvati); nữ thần Bhagavati; nữ thần Durga hay Quỷ vương Ravana trên các Ty pam tháp Mỹ Sơn F3
Bên cạnh đó là hình ảnh các vị thần vật linh như Ganesa, Nam din, Ham sa, thần Rắn (Naga), hầu vương Haruman, rắn Seka, Gajasimha( voi - sư tử), tượng voi, tượng sư tử vv... đều chuyển tải nội dung tôn giáo Ấn Độ phù hợp với nhận thức của người dân. Đặc biệt một số tác phẩm điêu khắc còn thể hiện những nội dung theo tinh thần sử thi văn hóa Ấn như cuộc thi tài bắn cung của hoàng tử Rama trên bệ Trà Kiệu, hay sự tích Hầu Vương Haruman cứu Sita chân tháp Khương Mỹ, cuộc thi tài của thần Shiava với quỷ vương Ravana điệu múa  thiêng Shiva trên các bức Typam Mỹ Sơn C1, Ponaga, Lương Hậu vv...
Như vậy có thể thấy, toàn bộ nội dung các tác phẩm điêu khắc Champa đều chuyển tải nội dung văn hóa Ấn Độ vào cộng đồng cư dân trong lịch sử. Đó là hằng số văn hóa xuyên xuốt trong toàn bộ tiến trình văn hóa Champa.
4. Một số nguồn tư liệu khác.
 Cùng với  những dòng chảy chủ yếu mang nội dung văn hóa Ấn Độ nêu trên, nhiều tư liệu vật chất và tinh thần của người Chăm còn mang đậm những dấu ấn từ văn hóa Ấn Độ.
Đồ gốm những bình gốm (Kendi) có mặt trong suốt tiến trình nghề sản xuất gốm Champa cũng được coi là bằng chứng ảnh hưởng từ nghề sản xuất gốm Ấn Độ. Bên cạnh đó các phong tục tập quán trong tang lễ (hỏa táng), cưới xin, hay văn học, nghệ thuật Champa đều có dấu ấn của nền văn minh đồ sộ từ Ấn Độ chuyển qua được người Chăm tiếp thu làm phong phú thêm đời sống vật chất tinh thần của người dân theo xuốt chiều dài lịch sử.
Điểm qua nguồn tư liệu hiện biết, có thể thấy tinh thần cùng văn hóa Ấn Độ là hằng số xuyên xuốt tạo nên giá trị  vật chất, tinh thần văn hóa Champa đóng góp làm phong phú bản sắc văn hóa dân tộc.
Sự hiện diện của người Chăm cùng lịch sử và văn hoá từ quá khứ cho đến ngày nay luôn là một bộ phận khăng khít trên phần đất bán đảo Đông Dương, trong lãnh thổ Việt Nam đa dân tộc. Cư trú trên địa bàn không gian mở, từ cội nguồn văn hoá truyền thống được xây dựng, người Chăm đã tiếp xúc và tiếp thu văn hóa Ấn Độ đa chiều xuyên xuốt theo chiều dài lịch sử. Hội tụ chắt lọc, người Chăm đã tạo nên một nền văn hoá rực rỡ  thấm đậm tinh thần tôn giáo văn hóa Ấn Độ và trở thành một bộ phận quan trọng trong tổng thể văn hóa dân tộc Việt Nam cho đến ngày nay. Đó là tiền đề quan trọng để hai dân tộc Việt - Ấn song hành cùng đi tới tương lại./.



[1] Lương Ninh : Vài nét về Văn bia Champa. NPHMVKCH. Hà Nội 1985; tr 247- 249
[2] Geetesh. Sharma: Những dấu vết văn hóa Ấn Độ tại Việt Nam. Nhà xuất bản văn hóa văn nghệ TP Hồ Chí Minh. 2012
[3] Nội dung bia Mỹ Sơn III
1 Bia Mỹ Sơn III
1 Geetesh. Sharma: Những dấu vết văn hóa Ấn Độ tại Việt Nam. Nhà xuất bản văn hóa văn nghệ TP Hồ Chí Minh. 2012
 

Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2015

Chuyện gẫu: HÌNH NHƯ....
               Hình như... mùa đông này nóng ấm. Cái lạnh tê tê của mùa đông giá ít đi. Quy luật 4 mùa:xuân - hạ - thu - đông hình như bị phá vỡ. Trời xanh và cao hơn, những tiếng kêu Trời ơi... vọng lên xa thẳm, vô vọng....
Hình như.... nước sông dần vơi cạn, dòng nước thanh mát dần chuyển sang màu xanh đen ám ảnh, xóa nhòa dần ký ức kỷ niệm của tuổi thơ...
Hình như... những giá trị cuộc sống dần mai một. Những thước đo tình cảm truyền thống bị lãng quên vì những quyền lợi trước mắt nhỏ nhoi. Anh chị em ruột thịt " khúc ruột trên, khúc ruột dưới" từ mặt đánh ghét nhau vì mảnh đất hương hỏa hay mấy đồng bạc của người thân để lại. Cộng đồng làng xóm " tối lửa tắt đèn có nhau" bị phá vỡ bởi một lối đi hay tranh chấp rặng rào. Những bạn bè, đồng đội cùng nhau sinh tử bị chia xẻ bởi đồng tiền bát gạo.....
Hình như .... hình như...
Hình như... lịch sử bị quên lãng... để không nhớ về cội nguồn gia đình, dòng họ, quê hương và cao hơn là Tổ Quốc
Người ta hay nói những cái xấu đó là mặt trái của kinh tế thị trường, nhưng kinh tế thị trường đâu phải chỉ bây giờ mới có. Gia đình - dòng họ - quê hương -Tổ Quốc mạch sống của mỗi con người... hình như cũng bị lãng quên....


Thứ Tư, 23 tháng 12, 2015



PHẾ TÍCH THÁP TRÀ SƠN
(DUY XUYÊN - QUẢNG NAM)
                                                                                  
Phế tích tháp Trà Sơn nằm trên vùng đất cao phẳng thuộc địa bàn xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên (Quảng Nam), cách thành Trà Kiệu khoảng 1,2km về hướng Đông - Bắc. Do những biến động của lịch sử, tháp bị dỡ bỏ, trên địa điểm tháp xưa người dân dựng nên ngôi chùa thờ Phật. Phía sau chùa là dấu tích còn lại của ngọn tháp xưa.
  Dấu tích tháp để lại là gò gạch cao từ 1,2m - 1,5m.Mỗi cạnh dài khoảng 12m xoải dần từ đỉnh ra xung quanh tạo nên hình tròn đều. Bề mặt trên cùng khá phẳng,  mọc đầy cỏ dại. Hiện vật để lại gồm có thành phần kiến trúc đá liên quan đến ngôi tháp gồm: các thanh đá bậc cửa ra vào, cột cửa, đế chân tảng và các bộ phận kiến trúc khác. Các thành phần kiến trúc này, khi xây dựng chùa được tận dụng làm ghế ngồi.
Cấu kiện kiến trúc đá
Stt
Dài (cm)
Rộng (cm)
Dày (cm)
Ghi chú
1
180
31
19
Ở hai đầu của phiến đá có hai lỗ mọng có kích thước 15cm x 16,5cm sâu 12cm
2
130
30
18

3
50
38
21
  một cạnh của tảng đá có lỗ mộng có kích thước 17cm x 17cm sâu 14cm
4
107
52
9
Đá dài hình chữ nhật
5
56
30
16
Đá dài hình chữ nhật
6
103
30
22
Đá dài hình chữ nhật
7
106
52
10
Đá dài hình chữ nhật
8
108
28
20
Đá dài hình chữ nhật
9
180
32
14
Đá dài hình chữ nhật
10
166
36
19
Đá dài hình chữ nhật
11
176
20
?
Đá dài hình chữ nhật

Đá kê chân cột
Stt
Dài (cm)
Rộng
dày
Ghi chú
1
65
65
30
Đá kê chân cột ở giữa của tảng đá co đục một lỗ hình vuông có kích thước 29cm x 29cm x 24cm
2
65
65
28
Đá kê chân cột ở giữa của tảng đá co đục một lỗ hình vuông có kích thước 29cm x 29cm x 23cm
3
60
60
35
Đá kê chân cột ở giữa của tảng đá có đục một lỗ hình vuông có kích thước 18cm x 19cm x 12cm
4
60
60
34
Đá kê chân cột ở giữa của tảng đá có đục một lỗ hình vuông có kích thước 18cm x 18cm x 13cm
Đá được sử dụng là đá Silics hạt mịn, màu xám nhạt, vật liệu thường được sử dụng trong các công trình kiến trúc Champa
Mặc dù bị dỡ bỏ,  nhưng vật liệu gạch xây dựng của tháp còn lại nhiều chất thành gò. tại đây còn một số viên gạch được khắc tạc hoa văn trang trí. Dựa vào họa tiết thể hiện trên gạch cho thấy đây là những việc gạch được khắc tạc trang trí bên ngoài kiến trúc tháp.
Bảng thống kê kích thước gạch một số viên gạch có hoa văn
Stt
Dài (cm)
Rộng (cm)
Dày (cm)
Ghi chú
1
19.5
16,5
7,8
Một cạnh của viên gạch được trang trí hoa văn
2
15,5
14,5
6,3
Một cạnh của viên gạch được trang trí hoa văn
3
23
19
6
Một cạnh của viên gạch được trang trí hoa văn
4
14
11
8
Một cạnh của viên gạch được trang trí hoa văn
5
26
16
7,2
Một cạnh của viên gạch được trang trí hoa văn
6
18
18
8
Một cạnh của viên gạch được trang trí hoa văn
7
21
18
8
Viên gạch góc được trang trí hoa văn ở hai cạnh của viên gạch
Một số nhận xét:
Theo nhân dân địa phương kể lại, trước năm 1975, địa điểm tháp Trà Sơn có 5 kiến trúc, trong đó kiến trúc trung tâm là lớn nhất, hiện còn dấu tích. Tháp bị dỡ bỏ sau năm 1975 lấy vật liệu xây dựng các công trình kiến trúc khác. Ngoài dấu tích còn lại, dựa vào vật liệu kiến trúc trên hiện trường cho thấy:
- Dấu tích để lại là phần thân và đế tháp trước đây. Với kiến trúc hiện còn cho thấy đây là một kiến trúc có quy mô lớn, được xây dựng với sự tham gia của gạch và đá, những vật liệu bền vững. Đá có kích thước lớn, được tạo tác thành những bộ phận kiến trúc như  thềm bậc lên xuống, đế cột, cột cửa.  mi cửa giả vv...Những viên gạch được khắc tạc hoa văn hình lá uốn cho thấy đây là viên gạch được xây trang trí trên thành phần cột góc, cột thân và diềm mái tháp.
- Dựa vào sự có mặt của vật liệu đá trong kiến trúc, hoa văn trang trí trên gạch, bước đầu cho thấy niên đại của tháp được xây dựng vào thế kỷ IX - X. Kiến trúc nằm cách thành Trà Kiệu kinh đô không xa, trong hệ thống chung của di tích Champa trên một địa bàn vùng đất cổ của người Chăm quản lý. Chắc hẳn tháp có vai trò quan trọng trong đời sống cư dân vùng đất, cần có kế hoạch bảo vệ, khai quật trong tương lai, góp thêm những tư liệu quý tìm về thành tựu văn hóa Champa trong một thời kỳ lịch sử./.


Chủ Nhật, 6 tháng 12, 2015

CHUYỆN GẪU:  AI ?
Đôi khi gặp những dòng tin trên báo, hay chương trình thời sự VTV, đưa tin ngư dân Việt Nam bị cướp, phá  khi đánh cá trên vùng biển nước mình do Tàu lạ, người lạ....Gần đây lại có tin ngư dân đảo Lý Sơn bị bắn chết trên biển Trường Sa mà cũng chưa biết kẻ trực tiếp hay chủ mưu từ đâu. Đọc thấy buồn. Chợt nhớ lại  một số câu trong bài thơ Viếng bạn của Hoàng Lộc xưa:
...Đứa nào bắn anh đó
Súng nào nhằm trúng anh
Nó là tên đế quốc
 hay là thằng thực dân
hay là thằng thổ phỉ...
Khôn thiêng xin chỉ mặt
gọi tên nó ra anh...
Bài thơ đọc đã lâu, nay nhớ không thể chính xác lắm. Nhưng ít ra người sống hay người chết phải biết kẻ bắn mình và mình chết vì sao. Chẳng lẽ, nhưng ngư dân chết mà không hiểu vì sao, từ đâu như những cái chết lãng xẹt, vô nghĩa.

Thứ Hai, 16 tháng 11, 2015

LỊCH SỬ?
1. Lịch sử
Theo Từ điển tiếng Việt dành cho học sinh phổ thông:
Lịch sử dt. Quá trình phát sinh, phát triển đã qua của một hiện tượng, một sự vật nào đó diễn ra theo thứ tự thời gian.(1)
Đây là cách diễn giải đơn giản nhất cho học sinh phổ thông hiểu từ Lịch sử theo danh từ. Suy rộng ra Lịch sử là những gì xảy ra đã qua. Lịch sử là quá khứ.
Quá khứ thân phận của một con người, một dòng tộc, một tộc người là lịch sử.
Ghi chép tiểu sử một con người, gia phả một dòng tộc,  về ngọn nguồn của một tộc người đó là lịch sử.
Nguồn gốc hình thành, quá trình tồn tại và phát triển của một vùng đất, lãnh thổ một dân tộc là lịch sử.
 Ghi chép về một vùng đất (lịch sử địa phương), một không gian sống lãnh thổ của dân tộc Quốc gia (Quốc sử). Lịch sử là "Đường thời gian mà ở đó tất cả các sự kiện đã diễn ra trên mọi khía cạnh của cuộc sống, từ chính trị, kinh tế, khoa học - kỹ thuật và công nghệ, văn học - nghệ thuật, tôn giáo - tín ngưỡng, chiến tranh" (2) Những ghi chép đó hình thành nên những sách lịch sử của một vùng đất hay Quốc gia
 Nếu cứ tạm hiểu như vậy  thì từ  " Đời xưa các nước, nước nào cũng có sử"(3)
Vậy người xưa viết sử để làm gì:
"Vì sao mà làm Quốc sử? Vì sử chủ yếu là để ghi chép sự việc. Có chính trị của một đời, tất phải có sử của một đời. Mà ngòi bút chép sử giữ nghị luận rất nghiêm, ca ngợi đời thịnh trị thì sáng tỏ ngang với mặt trời mặt trăng, lên án kẻ loạn tặc thì gay gắt như sương thu lạnh buốt. Người thiện biết có thể bắt chước, người ác biết có thể tự răn, quan hệ đến việc chính trị không phải là không nhiều.."(4) hay " Sử để ghi việc, mà việc hay hoặc dở đều dùng làm gương răn cho đời sau" (5)
Nước ta, do điều kiện bi thương, sau thời kỳ văn hóa Đông Sơn phát triển rực rỡ, một nhà nước sơ khai  mới manh nha hình thành đã bị vùi lấp trước lớp sóng đồng hóa của Trung Hoa. Hơn một ngàn năm Bắc thuộc và chống Bắc thuộc của dân tộc, lãnh thổ nước ta trở thành một quận huyên. Lịch sử  bị ghi chép như một bộ phận của lịch sử Trung Hoa.Máu và nước mắt của dân tộc Việt Nam đổ ra đòi độc lập (cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Triệu Thị Trinh, Lý Bôn...) bị nhạt nhòa không dòng ghi chép, hay ghi chép xuyên tạc của kẻ thù.
Chính vì thế sau khi giành độc lập dân tộc ta đã chú trọng ghi chép lịch sử dân tộc. Với khuyết thiếu của lịch sử dân tộc ngàn năm đầu" Nhưng vì thiếu sử sách biên chép, mà thực sự đều nghe truyền miệng, lời ghi có phần quái đản, sự việc có khi quên sót..."(6). Với những danh nho lừng danh " Văn Hưu là đại thủ bút thời Trần, Phu Tiên là bậc cố lão của thành triều ta, đều vâng chiếu biên soạn lịch sử của nước ta.." nên những bộ Quốc sử được hình thành như Việt sử lược, Đại Việt sử ký, Đại Việt sử ký toàn thư... với những sử gia danh tiếng như: Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Hồ Tông Thốc, Ngô Sĩ Liên... và trở thành truyền thống viết lịch sử dân tộc.
Nhờ có những bộ Lịch sử dân tộc ghi chép mà ngày nay chúng ta biết bài thơ thần của Lý Thường Kiệt với câu thơ:
Sông núi nước Nam , Nam đế ở
Rõ ràng phân định tại sách trời...
Hào khí dân tộc ấy, được hậu thế tôn vinh là Bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc.(7)
Hay  đọc Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn mà đau xót cho dân tộc " Huống chi ta cùng các ngươi, sinh ra phải thời rối ren, lớn lên gặp buổi khó nhọc, ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình, ỷ cái thân dê chó mà bắt nạt tể phụ... Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thân chịu quốc sỉ mà không biết nhục, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức, nghe nhạc thái thường thiết yến sứ ngụy mà không biết căm...."
Dù thăng trầm của lịch sử,  nhưng lòng tự hào dân tộc là ngọn lửa thắp sáng dẫn đường, kiêu hãnh:
" Xét như nước Đại Việt ta
Thực là một nước văn hiến
Bờ cõi sông núi đã riêng
Phong tục bắc nam cũng khác
Trải Triệu , Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước
 Cùng Hán, Đường, Tồng, Nguyên đều làm chủ một phương..."
Cũng từ Bản Đại cáo bình Ngô mà gương mặt tàn ác của quân xâm lược bị vạch trần:
"Tát cạn nước Đông Hải không đủ rửa tanh nhơ
Chặt hết trúc Nam Sơn không đủ ghi tội ác"
 Trải bao nếm mật nằm gai, bao máu xương đổ xuống:
"Để mở nền thái bình muôn thưở
 Để rửa mối sỉ nhục ngàn xưa"
 Nền độc lập phải trả bằng xương máu ấy, cho đến nay vẫn là niềm tự hào của mỗi người con dân Việt. Hậu thế  coi Đại cáo bình Ngô là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai.
Tư thế dân tộc một lần nữa được khẳng định khi đại phá quân Thanh xâm lược, người anh hùng áo vải Quang Trung  đã nói:
 Đánh cho để dài tóc
 Đanh cho để răng đen
 Đánh cho biết nước Nam anh hùng chi hữu chủ...
 Những ghi chép trong sử sách đó là linh hồn, biểu tượng cho dân tộc Việt, con người Việt, như mạch nguồn chảy mãi trong dòng máu mỗi người dân bấp chấp sự thăng trầm của lịch sử
Đầu thế kỷ XX đầy tao loạn, cuồng phong của chính trị, truyền thống lịch sử dân tộc lại là cứu cánh. Nhà sử học Trần Trọng Kim  tâm huyết viết cuốn Việt Nam lược sử. Ông viết để làm gì:
" Sử là sách không những chỉ để ghi chép những công việc đã qua mà thôi, nhưng lại phải suy xét việc gốc ngọn, tìm tòi cái căn nguyên những công việc của người ta đã làm để hiểu cho rõ những vận hội trị loạn của một nước, những trình độ tiến hóa của một dân tộc. Chủ đích để làm cái gương chung cổ cho người cả nước được đời đời soi vào đấy mà biết cái sự linh hoạt của người trước đã phải lao tâm lao lực như thế nào, mới chiếm giữ được cái địa vị ở dưới bóng mặt trời này. Người trong nước có thông hiểu sự tích nước mình mới có lòng yêu nước yêu nhà, mới biết cố gắng học hành, hết sức làm lụng, để vun đắp thêm vào cái nền xã hội của tổ tiên đã dựng xây nên mà để lại cho mình..."
Như vậy sự cần biết lịch sử dân tộc như thế nào, khỏi phải bàn nữa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dặn dò: Dân ta phải biết sử ta
2. Chiều nay 16- 11 - 2015 nghe "ngài" Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo trả lời chất vấn trước Quốc hội nói đưa môn học Lịch sử vào gói tích hợp.... "Ngài"  ví von khi học sinh học bài Đại cáo Bình Ngô là đã đưa môn lịch sử vào vì phải đưa vấn đề lịch sử ra đời khi viết Bài Cáo đó... Hay khi hát bài câu hò trên bến Hiền Lương là phải nói về lịch sử ra đời của bài hát.... Nghe thật là ngược đời, "Ngài" đã lẫn lộn vấn đề như các nhà Triết học tranh luận: quả trứng có trước hay con gà có trước.
 Xin thưa, nếu không có gần thập niên nếm mật nằm gai " Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần. Lúc Khôi huyện quân không còn một lữ" thì có được Bài Bình Ngô Đại cáo không?
Nếu không có chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động điạ cầu, hiệp định Giơ Ne Vơ chia cắt núi sông thì có bài hát da diết Câu hò trên bến Hiền Lương?
" Ngài " bộ trưởng cố tình nhầm hay không hiểu, nếu không có lịch sử chi phối làm nền, thăng hoa thì đâu có những tác phẩm nổi danh để lại cho Hậu thế.  Tác phẩm là sản phẩm của lịch sử hay lịch sử là sản phẩm của tác phẩm thưa "Ngài".
Muốn hiểu được những giá trị của các tác phẩm, cần phải hiểu rõ hoàn cảnh ra đời đó chính là lịch sử. Kiến thức căn cốt không hiểu thì lại định hướng hiểu ngược lại. Chẳng khác gì người ta nhìn cuộc đời bằng tư thế lộn ngược?
3. Những bài học
Trải qua năm tháng, sự biến động của xã hội, ý thức hệ chủ quan của con người. Lịch sử nhiều dân tộc dần bị biến mất khỏi ký ức: Tây Hạ, Thổ Phồn, Đại Lý... Gần đây là Tây Tạng. Mất Lịch sử dân tộc là mất ký ức quá khứ, sẽ sản sinh ra những chủ nhân sống vật vờ trên chính mảnh đất tổ tiên ông bà, mẹ cha để lại.



(1)Từ điển tiếng việt dành cho học sinh phổ thông. Nhà xuất bản Khoa học xã hội- Hà Nội 2014, tr 356
(2) Mai Thanh Sơn
(3) Bài tựa sách Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư - Đại Việt sử ký toàn thư. Nhà xuất bản Khoa học xã hội- Hà Nội 1998, tr 99 
(4) Sách Đại Việt Sử ký tục biên- Đại Việt sử ký toàn thư. Nhà xuất bản Khoa học xã hội- Hà Nội 1998, tr 96
(5) Bài tựa sách Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư - Đại Việt sử ký toàn thư. Nhà xuất bản Khoa học xã hội- Hà Nội 1998, tr 99 
(6) Bài tựa sách Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư - Đại Việt sử ký toàn thư. Nhà xuất bản Khoa học xã hội- Hà Nội 1998, tr 99
(7) Về nguồn gốc bài thơ có ý kiến của các nhà nghiên cứu còn cho rằng, bài thơ thần xuất hiện sớm hơn vào cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược thời vua Lê Đại Hành