Thứ Bảy, 30 tháng 5, 2015

Thứ Ba, 19 tháng 5, 2015

THÁP DƯƠNG LONG ( BÌNH ĐỊNH)
Tư liệu mới – nhận thức mới

I . Những tư liệu về tháp Dương Long
Tháp Dương Long là một  trong những nhóm 3 tháp, được xây dựng trên một vùng đồi cao phẳng thuộc địa bàn thôn Vân tường xã Bình An huyện Tây Sơn.Tháp Dương long có nhiều tên gọi khác nhau: tháp Bình An, Vân tường, An Chánh…nhưng tên gọi  Dương long là phổ biến và được nhiều người biết đến. “ Tháp Dương long gồm có 3 ngọn đứng ngang nhau trên nổng gò cao, một nửa thuộc thôn Vân tường, một nửa thuộc thôn Trường Định, quận Bình Khê.Ngọn tháp chính ở giữa đứng cao hơn hai ngọn bên,một mười một tám.Người Pháp gọi tháp này là Tour d’ Ivoire ( Tháp Ngà)”( Quách Tấn -2001) (1). Sách Đại Nam nhất thống chí viết “Tháp Dương long ở thôn Vân Tường huyện Tuy viễn”( Đại Nam nhất thống chí -1977) (2). Tên gọi tháp Ngà chỉ xuất hiện khi người Pháp biết đến khu tháp này mà đến nay vẫn chưa lý giải được vì sao có tên gọi đó.
Tháp Dương Long – Bình Định
Cuối thế kỷ 19 khi đến đây khảo sát tháp Dương Long, Ch.Lemire cho biết: “ Trên các bờ của sông Đông Phố, gần cái chợ lớn gọi là chợ đình hiện còn 3 cái tháp Chàm mà người Pháp gọi là các tháp Ngà voi, người Việt nam gọi là Dương long.Chúng được xây dựng trên một ngọn đồi,trong một cánh rừng mít và xoài tuyệt đẹp….Chúng rất cao, rất được chau chuốt và được bảo vệ tốt hơn các tháp ở Thi nại.Tháp ở chính giữa lớn hơn và được trang trí đẹp hơn hai chiếc kia.Tháp lớn nhất được xây bằng gạch đỏ nhưng nó được trang trí rất nhiều các tượng hoặc phù điêu bằng đá sa thạch có hình voi và rồng.Bên trên các cửa là các hình chạm nổi trình bày các vũ nữ,các sư tử đứng, các quái vật, các súc vật, các phụ nữ và các con voi.Các góc là các đầu rồng hoặc súc vật khổng lồ có bộ mặt nhăn nhó nối tiếp nhau và nhỏ dần đi, điều này đã gây ra ấn tượng hư ảo.Chung quanh các tháp nàyvẫn còn giữ được các đường chỉ và đường gờ chạm nổi trên đá Granít .Các cửa đều được hợp thành từ bốn cái cửa bằng đá nguyên khối, và thường hơi cao hơn mặt đất một ít.Bên trong là những cái vòm được thu hẹp lại đỉnh giống như cái lò sưởi của một phòng thí nghiệm.Đỉnh của chúng được đắp một bông sen nở … Cho đến nay, ba tháp này là ba tháp đẹp nhất mà chúng tôi đã được chiêm ngưỡng.Chúng đáng lưu ý trước hết về chiều cao của chúng, về khía cạnh đồ sộ và phong phú của các công trình điêu khắc nổi bật trên các khối lớn đá Granít” (Ch.Lemire -1887) (3).Trong công trình nghiên cứu của mình công bố đầu thế kỷ XX; H.Parmentier đã khảo tả khu tháp này khá chi tiết: “ Các tháp này người Pháp gọi là tháp Ngà, người An Nam gọi là Dương long, thuộc làng Vân tường , tổng Mỹ Thuận , phủ An nhơn. Nhóm 3 ngôi điện đó được dựng trên một gò đất bao quát những ruộng đồng xung quanh, nó quay lừng vào ngọn đồi thấp cách chừng vài trăm mét.Nhóm điện này quay mặt về hướng Đông, chếch Nam 3,5 o, dường như có quan hệ một hướng với tháp Thủ Thiện dựng ở trên cánh đồng ở bên kia sông An nhơn. Các tháp Ngà hình như là một bộ phận của tổng thể quan trọng mà một số vết tích còn thấy khá rõ.Mặt bằng chung có lẽ bao gồm một khu vực rộng gần như là vuông , ở giữa là các tháp; trước khu vực đó có một khoảng chữ nhật khác gắn vào theo chiều dài , cạnh dài này ngắn hơn cạnh vuông kia.Các khu khác nhau đó được biểu lộ bằng những vệt tường rất rõ. Ngoài các tháp ra, khu chính dường như có một toà nhà dài theo hướng Nam, nhưng chỉ còn lại những đống gạch.Có lẽ trước kia cũng có hai hoặc ba kiến trúc nhỏ ở đằng sau các tháp…Một phòng nhiều cột kiểu Đồng Dương hình như trước đây nối liền hai khu vực.Bây giờ chỉ còn nhận ra được các phòng đó qua những cuộc đào bới của những người đi tìm gạch.Trong khu vực này ở phía Nam còn thấy vết tích của một toà nhà nối dài qua những đống sụp đổ.Nơi đây chúng tôi đã tìm được một tượng ở góc và chuyển vào tiền phòng của tháp Nam… Ba ngọn tháp đồ sộ này thuộc vào loại thông dụng trái với lẽ thường, cả ba tháp trông như là đã được dựng cùng một lúc.Quả thật những tháp bên ngoài hầu như giống nhau về kích thước, cùng cách đều ngọn tháp trung tâm và đều nằm trên một trục chung, chỉ có một vài chi tiết trang trí phân biệt chúng với nhau.
Bản vẽ Tháp Dương Long
Nguồn: H.Parmentier 1909 -1918
Tháp xây bằng gạch, những bộ phận quan trọng bằng đá,dường như chúng đều nằm trên một mặt thềm liên tục.Các tháp Trung tâm và tháp Bắc cho thấy rằng gần gũi với loại giản lược, song tiền đường trong dạng đặc biệt của loại giản lược, có một tầm quan trọng lớn.Cái làm cho những tháp này khác với mặt bằng thường lệ trước hết là do sự có mặt của 3 cái khám lớn không sâu lắm ở bên trong và cũng là nhất là ở bên ngoài do nguyên tắc nhô ra của của mỗi trụ ốp khi chúng càng tiến gần vào giữa.Kiểu này dẫn các tháp đến mặt bằng vuông cạnh cong và được tiếp tục ở các bộ phận trên thì dễ dàng chuyển sang hình dáng tròn ở chóp đỉnh tháp.Đây là kiểu hoàn toàn Cao Miên và cũng chính là nguyên tắc xây dựng phần lớn các Prasát.Ngoài ra còn nhiều chi tiết trang trí xích nghệ thuật này gần với nghệ thuật Cao Miên, đặc biệt trong sự trống vắng rất hiếm hoi các hình điểm góc và những bộ phận trang trí nóc góc.Tháp trung tâm to lớn hơn các tháp khác đôi chút, tuy không được trang trí nhiều bằng .Các khám bên trong chỉ sâu độ vài cm,có hai lớp, bề rộng gần bằng cửa lớn.Một đường gờ làm chức năng mi trụ cho khám và chạy quanh gian.Cửa lớn có 4 mi cửa đồ sộ bằng loại sa thạch rất chắc.Những mi cửa đó ở đây cũng như ở Mỹ sơn, dường như trước đây làm nhiệm vụ chống.Ngưỡng hậu , mi cửa hậu có những cối cửa kích thước khác thường của chúng dường như chứng tỏ là có những cánh cưả đá.Tiền đường được xây mái vút bằng gạch, chi tiết lý thú, một thứ phòng không có cửa mở ra ngoài , hình như đãđược xắp đặt bên trên tiền đường này để giảm nhẹ cho mái vút. Ngọn tháp này cũng như ở hai tháp kia cái nền chung và cái chân không còn tý gì, ở đoạn sau chúng sẽ dẫn ra những cứ liệu chung mà chúng tôi có được về bộ phận này của 3 kiến trúc.Trụ ốp có 7 chiếc, rộng bản và để trơn, các mặt giữa trụ trang trí những khung và những đường gờ đơn giản.Cái chân cũng vậy đã mất hoàn toàn,chúng tôi suy luận là nó xây bằng đá hoặc lát đá ở ngoài, không có gì chứng tỏ là nó có hình áp.Bộ diềm loại gờ lượn bằng đá, ở mặt lớn có một dải trang trí hình người nhỏ, chân gập tay dang, chắc là những con khỉ.Chúng tôi đã xếp vào kho một mảng rơi xuống đất. U nóc là một bộ gờ gồm có hai hoặc ba gờ lượn và ở tận cùng bên trên bằng một mặt đá trang trí hình thoi. Các cửa giả bị sụp đổ khá nhiều, được tạo thành từ một phiến đá ốp ba phần tư vẫn còn sù sì.Phối hợp các tư liệu thu được trên các phần còn lại ở ba mặt có thể kết luận rằng cửa giả ở ngọn tháp này tương tự với cửa giả ở tháp Nam, nhưng tỷ lệ vút cao hơn. Các bộ phận trên của kiến trúc gồm 4 tầng, vuông có diềm và ụ nóc với những mặt đá chạm và một tầng trên có nhiều hàng trang trí, nghĩa là ít nhất nhiều hơn bố cục của một tầng, mỗi một tầng vuông cũng như thân tháp,có 4 cạnh và một khám ở giữa.Mặt tường nghiêng của các bộ diềm và ụ nóc cũng giống như thân chính, nhưng là xây bằng gạch và có hai mặt lớn bằng đá. Các khám giả chỉ có một thân, gồm có hai trụ, một mi cửa và một lá nhĩ bằng đá có thân rắn bao quanh và vểnh lên ở cả hai đầu thành 3 Naga.Một trong các khám ở tầng một hình như có chứa một hình người ngồi xếp bằng (mặt Bắc),các khám ở tầng ba và có lẽ ở cả tầng 4 lại có hình người múa.Tầng trong ở trên cùng có một hàng lá sen to hai lớp và một hàng khác nhỏ hơn.Mỗi nhóm dọc hai lá được kết thúc bằng một kiểu nụ hình cung nhọn.Một hàng nụ thứ hai chồng lên hàng đầu.Số lượng các nhóm đó hình như là 16, con số tương ứng với điểm xuất phát của bố cục hình vuông.Phần nhô ra của cửa lớn làm thành tiền đường có một bộ diềm kiểu gờ lượn rất giản lược, nó nâng một bộ diềm khác bằng gạch, thay cho ụ nóc hầu như còn nguyên với 4 mặt bằng đá.Bên trên dựng nên một mái vòm, bên ngoài xây thành hai tầng, tầng dưới hình mũi tàu úp ngược, tầng trên hình cung nhọn, giữa hai tầng có hai mặt lớn bằng đá ngăn cách.
Diềm mái tháp Bắc – Dương Long
Trong số 3 tháp, tháp Nam là ngọn tháp còn tốt nhất, tuy là có thể lo ngại rằng chỉ trong một thời gian ngắn khung cửa bên trong sẽ đổ, tháp còn giữ được một cửa giả hầu như trọn vẹn: cửa Bắc. Bên trong tháp cũng có những khám hai lớp vươn lên khá cao đến tận một chỗ thụt vào mới dừng lại.Chỗ thụt vào này chạy bên trên vòm cửa, chắc là để lấp trần.Mái của hành lang bên trong có mặt cắt hình mũi  thuyền úp ngược. Vách tường ngoài được xử lý như ở tháp Trung tâm song không có trụ ốp, cũng không có mặt giữa trụ.Bộ diềm bằng đá thuộc loại gờ lượn biến đổi chút ít.Giữa hai hàng gờ lượn thường lệ có một hàng hạt châu rất có tác dụng trang trí.Cách đẽo phác dải trang trí tràng hoa được xử lý ở đây như là một dải trang trí đơn giản có hai mặt khoét một hàng lỗ nhỏ trong gạch.Kiểu bố trí này gây được nhiều hiệu quả xem ra giống những dãy con tiện nhỏ trong các kiến trúc cổ ở Mỹ sơn. Trên mặt lớn có một dải trang trí nhộn nhịp những Gajasimhas trông thẳng mặt. U nóc được tạo thành bởi mặt gờ lượn đơn giản trang trí hình quả tim và một mặt lớn trang trí hình hoa thị.Cửa giả phía Bắc hầu như còn nguyên gồm 3 thân có những đầu cột tỷ lệ thích hợp ở những độ cao khác nhau.Cửa này chưa được làm xong hoàn toàn.Thân giữa và trước tạo thành bởi một kiểu khám có hai trụ ốp lớn đội một kiểu đầu trụ rất đơn giản, một gờ cung lõm hơi biến dạng thành gờ lượn. Trên các đầu cột đó có một mi cửa trang trí thành dải.Chính giữa là đầu một quái vật ngậm những vòng hoa cuộn.Hầu như toàn bộ lá nhĩ này vẫn còn trong tình trạng phác thảo.Chỉ phân biệt được ngoài rìa hai thân rắn đang trườn xuống giữa hai hàng quả xoài Chàm để rồi ngóc đầu lên thành đầu Makara ở chân lá nhĩ.Thân sau gồm có, bên trong những cột tương tự, một kiểu ụ nóc chân đế rất lớn và
Trang trí diềm mái tháp Dương Long
bộ diềm rất đơn giản.Thân này đỡ một lánhĩ bị hỏng khá nhiều với những bố cục tương tự như lá nhĩ trước và ở giữa  thì chỉ mới đẽo vát mà thôi.Thân này tiếp tục kéo dài đến bộ nóc của thân thứ ba bởi những phần nhô ra của đầu tường ở mỗi tầng, nếu như cứ suy ra từ những bộ phận trên cao còn lại của các cửa khác .Quả thật, thân thứ ba từ trên xuống dưới chỉ là một dãy những mảng ngang mà hai mô típ trước liên kết lại.Những mảng đó tạo thành như kiểu những tầng của bộ nóc một ngọn tháp mà có cái thân chính níu xuống sau hai thân khác .Trên những đầu cột trang trí quả xoài Chàm, dựng nên 5 tầng có ụ nóc và diềm, chúng tôi nghĩ phải có đến 6 tầng.Vị trí của chúng giống nhau, tuy rằng càng lên cao càng giảm dần kích thước.Bộ diềm chung là một gờ lõm một phần tư đường tròn có hình chàm dưới một dải trang trí.Từ dưới lên ta thấy trước hết là một dãy quái vật, từng đôi một tranh nhau một con Dê, mỗi con túm lấy con Dê trong tay và dơ lên, còn tay kia thì vung một lưỡi gươm, có lẽ đây là những con sư tử ; chân gập khuỷu chúng giang rộng tay và chân ra.Dải trang trí ở tầng trên tiếp theo có những động vật nhỏ, dường như là những con Dê quỳ chân trước xuống, mồm ngậm một cành cây, và con khỉ thì quay đầu ra trước, con thì ngoảnh ra sau.Tầng thứ 4 và thứ 5 có một dải trang trí hình quả trám. Góc của ụ nóc ở tầng một có một con sư tử chỉ mới đẽo phác , còn ở 3 tầng trên thì là những con Naga dáng đẹp chạm khắc tinh tế, năm chiếc đầu tách ra trên một nền đầy những đoá hoa.Khoảng cách giữa các con Naga với mô típ trung tâm dô ra rồi tiếp tục kéo dài tầng thứ hai theo chiều cao, là rồng ở tầng thứ nhất; ở tầng thứ 2 khoảnh đó hoạ nên chỉ thấy dường như một con thú đang leo dọc lá nhĩ lên ; ở tầng thứ 3 có lẽ cũng con thú đó nhưng chồm lên.Con này đang đi, hơi giống con sư tử ở Cao Miên.Tầng thứ 4 cũng thấy có, nhưng nằm xuống.Phần này đáng tiếc bị mất ở tầng thứ 5. Tại cửa phía Nam, bên trên con sư tử nóc, dải trang trí gồm một dãy khỉ đang chiến đấu với những con chim cổ dài, chim đang ăn cánh tay khỉ, giống như một mảnh bị rơi xuống đất.U nóc ở tầng 2 có 3 hình nhỏ, hai hình có mặc quần áo cầm tay nhau, một hình khác không quần áo trông như là một con khỉ dường như vừa đi vừa nói với hai hình kia.Ơ’ cửa Tây không còn gì.  Những phần trên cao của tháp Nam hư hỏng khá nhiều, có lẽ là tầng trên hầu như vẫn còn nguyên.Các tầng vuông, cũng bố trí giống như ở tháp chính, lặp lại kiểu mặt bằng về bệ gờ của tầng chính.Mặt phẳng lớn của bộ diềm ở tầng 1 trang trí một dãy cung nhọn nở hoa, trong hình cung có một người nhỏ đội mũ trụ, tay chắp ngồi xếp bằng cái khám giả ở mặt Đông, trông thấy được rõ ràng bày lộ ra giữa hai trụ ốp.Một mặt gạch có hai phần dưới một mi cửa trang trí hình trám. Ơ’ đây tầng của bộ nóc đầy đủ hơn.
Trang trí nóc tháp Dương Long
 Từ chân bộ nóc xuống gồm có một hàng lá sen bằng đá hình bát giác , ở dưới cũng có những trụ bằng gạch hình bát giác đỡ lấy, các trụ này lại dựng trên tầng vuông cuối cùng .Ơ’ tháp Bắc thì mô típ này chạy tròn , ở tháp Trung Tâm không có .Tầng trên dường như có một chuỗi nút , và bên trên chuỗi nút đó là phiến đá đỉnh nóc, mà đáng tiếc chỉ còn một mảng tròn đầy đủ , chắc là nó phải giống hình quả bom thân tròn to, trang trí một đường lá sen ở chân Tháp Bắc nhiều bộ phận bị huỷ hoại nặng nề nhất, ngược lại có cái cửa giả được giữ lại tốt nhất .Nó thuộc loại khác các cửa giả khác. Bên trong tập hợp những yếu tố đặc biệt của các phòng trước , khám lớn , mi cửa và phần thụt vào, song mi cửa lại ở ngang tầm với chân vòm hành lang bên trong.Cửa thân thụt vào lại ở đoạn giữa của vòm.Cả hai yếu tố đều chạy quanh phòng. Bố cục của phần xây ốp bên ngoài cũng giống như tháp Nam. Bộ diềm bên trên là một kiểu diễn dải mới cái mặt nghiêng thông thường , song hầu như cũng đạt như ở tháp Nam. Gờ lượn kép ở đây được thay thế bằng một mẫu rất đơn giản, những sư tử chồm lên thẳng mặt , đôi khi là những hình người nhỏ, ở góc có những con khác ngồi xổm, tay đưa lên cao.Mặt trên có một dãy hình cung nhọn mỗi hình tạo thành bởi hai con rắn đầu rụt lại ở chân cung, dưới một hình người nhỏ ngồi xếp bằng. Có hai cửa giả  thì đã bị hoàn toàn huỷ hoại, cửa thật ngược lại được gìn giữ rất tốt, không bị mất mát gì cả, chỉ có lá nhĩ hình như bị vạt đi hoặc bị vỡ do đá ở tháp Trung Tâm rơi xuống. Cửa thật gồm 3 thân, thân giữa chỉ là phụ cho thân trước .Ngược lại thân sau lại chia thành 3 phần theo chiều rộng; các thân được chia ngang này không cao bằng thân giữa .Thân trước là một cái khám có hai trụ ốp lớn mà đầu cột trụ chỉ vào một phiến đá thôi  - như thể phiến đá đó vì một lý do gì đó, hoặc là để cho chắc chắn, hoặc là bị làm dở dang – không bị hoàn toàn đục thủng ra.Bản thân các đầu cột cũng đỡ một mi cửa trang trí những hình người nhỏ nhảy múa, song chỉ còn mỗi một hình. Tư thế và trang phục hao hao giống những vũ nữ ở bệ Trà Kiệu. Lá nhĩ được tạo thành bởi một hình cung nhọn, đỉnh cao có một đầu quái vật đồ sộ ở trên, có lẽ cái đầu có đội một hình người, từ mõm quái vật thoát ra một đôi rắn có cái đầu Makara, rồi từ đầu Makara lại sinh ra ba Nagas . Ở bên ngoài cũng như ở bên trong, những đoá hoa Chàm đặt nghiêng theo thân rắn.Ơ’ giữa hình tượng chính, tuy đã hoàn toàn bị đục vỡ nát vẫn còn nhận ra được qua nhát đục đó là một hình người múa, hai chân đều gập, tay trái đưa lên cao. Đầu đội một mũ trụ rất cao, dái tai căng dài có những đôi khuyên nặng.Thân giữa lặp lại mọi yếu tố của thân trước , có một bộ diềm bố cục trang nhã với những dạng thông thường , những gờ lượn dưới thường đối xứng với gờ lượn trên trong nhóm hai gờ lượn, thì ở đây được thay thế bằng một tràng hạt, giữa hai gờ lượn lớn trang trí những đoá hoa trông nghiêng, trên những đoá hoa có những hình tượng dáng dấp người mà có đuôi, chắc là khỉ.Mặt trên có một dải trang trí hình hoa thị trong đó có hình người.
Cửa giả tháp giữa – Dương Long
Cái băng nhỏ ở trên cửa ngạch, mà thân trước để lộ ra cho nom thấy trang trí đầy đoá hoa Chàm ở chung quanh , ở trên lại có một kiểu con sò, ở dưới thì một con Naga phía trước mặt, hai con ở cạnh. Thân sau, ở các mặt ngang cho thấy hai bộ diềm cùng loại kết thúc  bằng hai mặt phẳng trang trí thành dải, ở dải dưới là những hình đĩa rất phong phú , đĩa ở góc đựng một đầu quái vật, đĩa liền đó có một hình người quỳ tay đưa lên cao.Dải ở trên mặt Đông Nam có nhiều đầu quái vật  đội một khám lá hình cung nhọn ở bên trên , giữa các đầu đó có những con sư tử nhỏ đối mặt nhau.Trên cạnh đối xứng có những hình người nhỏ nhảy múa. Trên các đâù tường đó có hai Naga ba đầu đẹp, những guột lá hình lửa nằm ngang thay cho cái đầu thứ tư và thứ năm.Mỗi cổ rắn có một hình hoa thị và một hoa thị chung cho thân rắn chung.những con rắn này thoát ra từ mõm một con rắn nhả ra. Chân rắn được thể hiện khá vụng về khiến ta tưởng những chân đó nằm dọc theo thân giữa . Cái thân này đội một bộ diềm dẹt vỡ, nhất là ở chỗ gờ lượn lớn, gờ này trang trí đoá hoa, còn mặt phẳng lớn của diềm trang trí hình hoa thị nhưng chưa làm xong.Bộ phận đầu tường này đỡ lấy lá nhĩ , một hình cung nhọn bè ra gồm những thân rắn với một dãy lá kiểu Chàm bao quanh thoát ra từ đầu một quái vật to lớn. Các con rắn này lại kết thúc ở bên dưới bởi những đầu Makara, và từ đầu Makara lại thoát ra , nhưng lần này quay vào trong những Naga ba đầu khác . Ở chính giữa là là một hình người đã bị vỡ, ngồi xếp bằng trên một cái đế có gờ, đưa tay trái lên cao. Trên đầu quái vật cũng có một người ngồi như vậy, khuỷu tay chống lên đầu gối, bàn tay đưa lên cao, bàn tay trái cầm một cái gậy con.Trang phục là một kiểu Sampót, đầu đội Mukuta nhọn đầu, trang sức vòng có ở tay và một vòng cổ, có lẽ có cả hoa tai. Bộ nóc của tháp có 4 tầng vuông và một tầng tròn.Những tầng vuông là sự lặp lại của tầng chính.Các cửa giả có vách bằng gạch xây thành hai khung trông tựa cánh cửa; các tấm lá nhĩ chắc là có chứa những hình người nhảy múa giữa Naga, nếu như cứ suy ra từ cái khám giả ở tầng một mặt Nam.Ơ’ đây thấy có một hình người đàn ông nhảy múa giữa hai người ngồi xổm, tay đưa cao; ở mặt Tây hình người trông cũng giống song những người phụ tá lại được thay thế bằng những thú vật. Ơ’ bên trên dựng lên một tầng trên dường như có hai mươi lá và cũng được bố cục như tháp Trung Tâm. Ơ’ cửa chính chỉ còn một đoạn nhô ra của tiền đường ,đó là thân sau,đoạn nhô này cho ta thấy cách xắp xếp của bộ mái của phần này.Ơ’ giữa là lưng mái hình quả chuông, ở hai bên là hai bán vòm hình đầu tàu.Hai bán vòm trang trí một dãy quái vật, thân tách ra khỏi nền.Đầu là của sư tử nhưng lại giống đầu Naga. Có thể rút ra được từ những nét khác nhau những dẫn liệu chung cho cả 3 tháp trên. Chúng tôi có nói là nền chung và chân của các tháp đó hầu như không còn gì .Dù thế nào thì
Mặt bằng kiến trúc tháp Dương Long( Nguồn: H.Parmentier 1909 -1918)
tầng nền cũng bị cắt bởi các cửa thật và cửa giả, và có lẽ cái cửa giả Bắc của tháp Nam vẫn còn giữ cho chúng ta thấy một đoạn nhô ra; từ dẫn liệu nhỏ bé đó hẳn ta có thể kết luận được là nền được xây ốp đá ở ngoài.Cứ liệu này được minh xác bởi sự có mặt của rất nhiều tảng đá la liệt mặt đất xung quanh…Nếu nền được xếp bằng gạch, thì chắc hẳn ta sẽ khó giải thích được tại sao chỉ có bộ phận này trong kiến trúc  mái bị huỷ hoại đến như thế trong lúc những phần còn lại được gìn giữ tốt đến như vậy.” (4). Ngoài những khảo tả đã nêu, dựa vào hiện trạng hiện còn, H. Parmentier đã thể hiện bản vẽ về mặt bằng của tháp.Do giá trị đặc biệt về lịch sử và kiến trúc của tháp Dương Long, sau này có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến nhóm tháp này. Nhưng về cơ bản tài liệu chỉ dừng trên tư liệu khảo sát hiện trạng trên mặt đất hiện còn, bổ xung thêm nhận thức cùng giá trị nghệ thuật của tháp” (  Ngô Văn Doành 1998; Lê Đình Phụng 2002 )(5).
II. Thỏp Dương Long- Tư liệu  qua khai quật khảo cổ học
 Để chuẩn bị cho việc trùng tu tôn tạo các kiến trúc trong  nhóm tháp Dương Long; năm 2006 – 2007 hai cuộc khai quật khảo cổ học được tiến hành tại đây. Cuộc khai quật năm 2006 được tiến hành trên diện tích hơn 20­00m2, cuộc khai quật năm 2007 khai quật 1088m2 lấy các kiến trúc tháp làm trung tâm. Sau khi bóc toàn bộ lớp đất phủ dày xung quanh tháp, toàn bộ công trình kiến trúc xuất lộ. Với cuộc khai quật năm 2006 thu được hơn 1000 hiện vật liên quan đến tháp. Năm 2007 tiếp tục thu được thêm  155 hiện vật, những hiện vật này góp thêm những hiểu biết về thành phần trang trí kiến trúc trên tháp. Đặc biệt qua khai quật đã là xuất lộ hệ thống đá ốp trang trí chân tháp còn lại.(6)
1. Những hiện vật tiêu biểu .
Với trên 2000 hiện vật thu được qua hai cuộc khai quật, trước hết phải nói các hiện vật này đều có nguồn gốc từ  tháp Dương Long rơi  xuống, hoặc phần đế tháp bị bóc dỡ đưa ra. Ở đây chúng tôi chỉ nêu lên một số hiện vật tiêu biểu.
-Phù điêu trang trí vòm cửa.






Trang trrí vòm cửa tháp Dương Long phát hiện năm 2006 - 1986
Hiện nay cả 3 tháp Dương Long hệ tjhống vòm cửa dẫn vào lòng tháp đều không còn, nhưng những hiện vật liên quan đến bộ phận kiến trúc này vãn được biết đến qua cuộc  thám sát năm 1986 đó là tấm phù điêu trang trí vòm cửa ( Typam)  thể hiện hình ảnh thần Bhrama( Lê Đình Phụng – 2002).(7)
Cuộc khai quật năm 2006 tìm được một tấm trang rí vòm cửa khác. Trang trí vòm cửa được tạo dáng hình lá đề nhọn. Kích thước cao 1,2m, rộng nhất 0,9m. Điều đáng tiếc là tấm phù điêu bị đục phá nhưng vẫn nhận thấy chủ đề thể hiện là  hình ảnh thần Bhrama  trong tư thế ngồi, hai chân xếp bằng; có tấm cánh tay. Hai tay trước  đặt trước lòng, phía sau mỗi bên 3 chiếc cân xứng. Về  khối điêu khắc hai tấm tương tự nhau, tư thế thể hiện khác nhau , nhưng phong cách thể hiện tương đồng, đặc biệt  3 cánh tay phía sau mỗi bên thì tư thế giống nhau
- Mảnh đế Chóp tháp.
Cuộc khai quật tìm được một phần nóc đế chóp tháp, đây là một phần khối đá tạo dáng hình tròn, dày hơn 0,5m; đường kính khoảng 1,2m – 1,5m;  mặt đứng tạc hoa văn cánh sen hai lớp thô mập,  chính giữa cánh có sống nổi, mũi sen bẻ uốn cong xuống, cánh sen hướng lên làm nền cho chóp tháp vươn cao
Phần đế chóp tháp ( phát hiện năm 2006)
Chóp tháp (Bản vẽ của H.Parmentier 1909 -1918)
Việc tìm thấy phần đế chóp tháp cho biết tính chân xác của bản vẽ do H. Parmentier thực hiện, giúp cho việc phục dựng trùng tu chân xác di tích này
- Khối tượng Makara.
Khối tượng Makara tìm được qua khai quật có kích thước lớn nhất trong các hiện vật tìm được, cao 1,65m, dày nhất khoảng 0,8m, mặt đứng khắc tạc hình ảnh Makara, từ miệng nhả ra rắn Naga nhiều đầu. Makara thể hiện khá dữ tợn
Điêu khắc Makara
Với mắt tròn lồi miệng há rộng ranh nanh chìa nhọn hoắt nổi trên những họa tiết hoa văn hình móc xoắn to thô. Rắn Naga nhiều đầu từ miệng Makara nhả ra với thân tròn  vẩy xếp lớp, đầu vươn cao, miệng nhọn, mắt tròn lồi, lông mi dựng nhiều lớp trông khá sinh động. Vị trí của khối tượng được gắn tại lan can phần chân đế tháp
- Khối tượng  rắn Naga.
Đây là khối tượng được sử dụng trang trí bộ phận góc, tầng dưới mái tháp. Khối tượng có hình gần bán nguyệt uốn cong, đáy dài, đỉnh hơi thót lại, cao 0,9m, dài nhất 1,3m
Hiện vật tìm được qua khai quật
Trang trí góc mái tháp hiện còn
thể hiện mỗi bên 3 đầu rằn Naga vươn lên. Rắn thể hiện miệng nhọn, mắt tròn lồi dữ tợn, mi nhiều lớp chồng lên nhau, đầu đội vương miện trang trí hạt chấm tròn kết dải, phía trên là những dải họa tiết hoa văn móc xoắn. Bộ phận này ghép với phần dưới đẻ tạo nên một đề tài trang trí hoàn chỉnh. Nhìn chung những hiện vật thu được đa phần đều từ những bộ phận trang trí kiến trúc tháp (mái tháp, hệ thống cửa) rơi xuống, các hiện vật có nhiều kích thước, tùy theo vị trí đảm nhận trong trang trí mà được trang trí các đề tài khác nhau. Chủ đề thường gặp là hình ảnh các con Makara, Naga, sư tử, các họa tiết hoa văn móc xoắn kết dải vv…
2. Hệ thống đá trang trí chân tháp.
Kết quả các cuộc khai quật năm 2006 -2007 sau khi bóc toàn bộ lớp đất phủ dưới chân các tháp đã làm xuất lộ toàn bộ hệ thống đá trang trí chân tường. Mặc dù đã phần nào bị dỡ bỏ, nhưng có thể nói cả ba tháp còn để lại dấu vết
Hiện trạng mặt bằng khai quật tháp Dương Long
đá trang trí  chân tháp còn khá  rõ ràng, được điêu khắc trang trí đẹp, bị vùi sâu trong lòng đất, từ đó cho thấy mặt bằng kiến trúc của bộ phận đế tháp.
- Tháp Bắc.
Tháp Bắc  là di tích còn khá nguyên vẹn, riêng hệ thống cửa giả phía nam còn nguyên vẹn. Sau khi bóc lớp đất phủ chân tháp cho biết hệ thống đá ốp diềm chân tháp bị dỡ bỏ gần hết,  phía trước chân cửa chính còn lại dải 3 phiến đá  khói hộp kè chắc chắn, mặt đứng không có trang trí. Dưới chân cửa giả phía Nam còn lại một dải đá khối hộp kè dọc theo cạnh chân tháp gồm 3 lớp cao 0,85m – 1,05m; dài 2,8m – 3,2m. Phần kè đá này  hầu như không được khắc tạc trang trí. Trên mặt đứng khối đá cho thấy có các gờ chỉ chạy dài tạo viền trang trí, phía trên có hai lớp cánh sen nhỏ nhọn hướng lên. Chính giữa có tạc sơ sài hình cột hai đầu loe. Hình dạng mới ở dạng phác thảo
Đá trang trí chân tháp Bắc
- Tháp Trung tâm( Tháp Giữa)
Tháp Trung Tâm
. Kết quả khai quật chân tháp cho thấy hệ thống diềm đá trang trí đế tháp  phía bắc kéo dài trên 10m, bắt góc cùng với dải diềm phía đông thành hệ thống diềm  chân tháp tương đối hoàn chỉnh. Diềm đá còn lại  3 lớp, cao 1,42m. Lớp trên cùng  còn hai phiến, lớp dưới còn lại 10 phiến ; tầng cuối có 13  khối, phía đông còn lại 3 khối. Các khối đá được mài cắt vuông vức, ghép liền khối với nhau tạo nên tạo nên góc bẻ dưới vị trí chân cửa giả tháp. Kích thước các khối
Đá trang trí chân tường bắcđế tháp Trung Tâm
 đá dài từ 0,6m -1,4 m, cao  0,55m, dày 0,45m, mặt đứng có khắc tạc trang trí.
 Tầng 1 mặt đứng để trơn, phía trên cắt gờ chỉ thu hẹp vào làm nền cho tầng trên.Tầng 2, phía dười là gờ mỏng làm nền, tiếp đến là họa tiết cánh sen nhọn lết dải nối nhau thể hiện hướng lên. Cánh sen thể hiện kép, mặt cánh sen chạm khắc hoa văn móc xoắn nối nhau. Tiếp đến là gờ uốn cong thành bát, phí trên là hai lớp cánh sen kết dải thể hiện phủ mềm, mũi sen quay xuống. Ngăn cách hai lớp cánh sen là khe hẹp sâu tạo không gian trang trí riêng biệt. Cánh sen thể hiện mặt cánh to, riềm cánh uốn móc xoắn hướng tâm. Khối thể hiện to, rõ.
Tầng 3 chỉ còn lại hai phiến đá, mặt đứng phía dưới trang trí họa tiết cánh sen úp xuôi, phía trên là dải núm vú gồm 13 chiếc và 8 chiếc kết  thẳng hàng. Các núm vú thể hiện căng tròn đầy sức sống.
Dải trang trí chân tháp diềm phía nam còn khá nguyên vẹn, toàn bộ chiều dài cạnh nam tháp dài 18,2m, cao 2, 2m gồm nhiều phiến đá ghep lại với nhau tạo nên. Cũng như dải đá trang trí phần chân phía bắc, dải trang trí phía nam cung cấp khá hoàn chỉnh về họa tiết trang trí chân đế tháp Trung tâm.
Đá trang trí phía nam tháp Trung Tâm
Đầu dải trang trí là một cột đá được khắc tạc hoàn chỉnh. Cột thể hiện khối vuông thắt giữa chia 3 phần tương xứng; phía trên cùng là họa tiết núm vú tròn căng tạc 4 mặt mỗi mặt 4 chiếc  đăng đối nhau. Phía dưới là họa tiết cánh sen kết dải vây quanh, mũi sen phủ xuôi, cánh sen mặt rộng, nhiều lớp chồng lên nhau, mũi sen xoắn tròn, khối nổi căng. Phía dưới  tiếp theo là một tầng trang trí họa tiết cánh sen như tầng trên. Tiếp theo tầng dưới là hạo tiết cánh sen úp xuôi. Cánh sen lớp này thể hiện uốn cong mềm hơn, bản cánh rộng,  khối nổi ít, mép cánh uốn cong xoắn. Lớp dưới cùng là họa tiết cánh sen nhọn thể hiện kép so le nhau, mũi sen nhọn uốn hướng lên. Mặt cánh trang trí họa tiết hoa văn móc xoắn.
Trụ góc dải trang trí  chân đế phía nam tháp trung tâm
Toàn bộ dải trang trí đế tháp phía nam tháp Trung Tâm được trang trí các dải hoa văn thống nhất. Chính giữa là dải trang trí các núm vú chạy dài. Núm vú tròn căng nhô lên được khắc tạc chi tiết thể hiện sự sống. Phần phía dưới là 4
Trang trí núm vú chân đế tháp Trung Tâm
lớp cánh sen.  Lớp cuối sát chân đế là dải cánh sen thể hiện kép so le nhau, mũi sen nhọn thể hiện hướng lên. Ba lớp trên thể hiện cánh sen to bản kết dải nối nhau thành băng liên hoàn. Mũi cánh sen uốn cong móc xoắn thể hiện quay xuống phủ xuôi. Đối xứng phía trên  là 3 lớp trang trí. Hai lớp dưới trang trí họa tiết cánh sen thể hiện hướng lên đăng đối với lớp dưới. Lớp tên cùng thể hiện đầu rắn Naga nhìn thẳng kết dải. Phía sau rắn là tấm tựa hình cung tròn, diềm vòng cung khắc tạc hoa văn móc xoắn, đầu rắn nhô ra với miệng nhọn, mắt tròn lồi, tai như tai thú  nhìn dữ tợn. Trên đầu rắn là họa tiết mặt Kala kết dải. Mặt Kala thể hiện nhìn thẳng dữ tợn, mắt tròn lồi, mi xếch, mũi to thô, miệng há rộng, răng nanh chìa lởm chởm.
MÆt KaLa
                Trang trí rắn Naga
Đây là dải trang trí chân tháp Dương Long được phát hiện hoàn chỉnh nhất, với đề tài trang trí phong phú, khắc tạc tỉ mỉ, họa tiết chau chuốt thể hiện đẹp sống độn, giàu tính thẩm mỹ.
- Tháp Nam.
 Kết quả khai quật cho thấy  đá trang trí đế tháp Nam còn lại một dải duy nhất gồm hai lớp đá phiến chồng khớp lên nhau, dài trên 10m, cao 0,65m gồm nhiều phiến đá ghép thẳng hàng với nhau tạo thành tại chân phía bắc và một phần phía đông và tây của tháp. Mặt đứng lớp dưới không khắc tạc trang trí , phía trên trang trí hình ảnh bệ thờ thắt giữa được giới hạn bởi khung trang trí có gờ trên và gờ dưới nhô ra.. Điều đáng chú ý là các góc bắt của  góc chân tháp được khắc tạc hình ảnh chim Garuđa thể hiện đứng trấn các điểm góc. Chim Garuđa trong tư thế đứng, với hai tay giơ cao đối xứng hai bên, cổ tay đeo vòng trang sức.  Gương mặt tròn, mỏ nhọn, thô, mắt tròn lồi, long mi nhiều lớp xếch ngược. Ngực nở vươn về phía trước, cổ đeo vòng trang trí là những hạt chấm tròn buông hình tam giác chảy trước khe ngực, mông nở hai chân
Trang trí chân tháp Nam
đứng choãi vững chắc. Dưới chân Garuđa thể hiện đầu Sư tử với miệng há rộng dữ tợn. Trong những con Garuđa thể hiện ở các góc, tư thế thể hiện giống nhau, nhưng có sự khác nhau về chi tiết. Nhìn chung phần còn lại của chân đế tháp Nam, điêu khắc trang trí có phần đơn điệu về đề tài, nghệ thuật điêu khắc đơn giản lấy vẻ đẹp của khối làm chủ đạo.
Garuđa tạc trang trí góc chân đế tháp Nam
 Kết quả hai cuộc khai quật đã làm rõ toàn bộ cấu trúc ban đầu của mặt bằng kiến trúc tháp, cung cấp nhiều tác phẩm điêu khắc đá quý về nghệ thuật điêu khắc đá Champa, góp những tư liệu quý chân xác tìm về giá trị nghệ thuật và lịch sử kiến trúc của nhóm tháp quan trọng này trên địa bàn Bình Định và giai đoạn nghệ thuật ViJaya.
III Những nhận thức mới.
Trong nghệ thuật kiến trúc tháp Champa ở Bình Định nói riêng và trên dải đất miền Trung nói chung, nhóm tháp Dương Long có vị trí đặc biệt. Theo các nhà nghiên cứu tháp Dương Long là sự hội tụ của hai nền nghệ thuật có quan hệ mật thiết và ảnh hưởng lẫn nhau đó là nghệ thuật kiến trúc tháp Champa và nghệ thuật kiến trúc tháp Khmer. Kết quả khai quật, với tài liệu thu được đã minh chứng cho điều đó.
- Trước hết nói về mặt bằng kiến trúc; nếu trước đây dựa vào kiến trúc, các nhà nghiên cứu cho rằng mặt bằng kiến trúc đa cạnh, khá riêng biệt trong nghệ thuật kiến trúc tháp Champa thì kết quả khai quật cho thấy mặt bằng kiến trúc tháp ban đầu có mặt bằng hình vuông theo truyền thống kiến trúc tháp Champa
Mặt bằng kiến trúc tháp Dương Long( Nguồn BT tổng hợp tỉnh Bình Định)
Trong kiến trúc này có sự kết hợp giữa hai mặt bằng: mặt bằng kiến trúc đế tháp và mặt băng thân tháp tạo nên hiện tượng biệt lệ trong kiến trúc tháp Champa.Đây là sự kết hợp hài hòa giữa hai truyền thống kiến trúc lớn trong khu vực, được hội tụ trên một công trình kiến trúc.
- Vật liệu kiến trúc khác với các kiến trúc tháp Champa gạch là vật liệu truyền thống  tạo nên hình hài khối kiến trúc,  ở tháp Dương Long cho thấy đá ở đây giữ vai trò quan trọng. Đá sử dụng trong nhiều bộ phận kiến trúc: đế tháp, cửa giả, diềm mái tháp, đỉnh nóc. Khác với các công trình kiến trúc tháp khác, đá chỉ chiếm một số vị trí khiêm tốn thì chất liệu đá ở đây giữ vai trò là vật liệu chính, đặc biệt bộ phận chân đế làm nền cho toàn bộ khối kiến trúc vươn lên. Sự kết hợp hài hòa giữa hai vật liệu không đồng chất liệu đã tạo nên không những hiệu quả về độ bền vững của khối kiến trúc mà còn tạo nên hiệu ứng mỹ thuật, mang vẻ đẹp riêng biệt vừa bền vững vừa ấm áp. Đây cũng chính là thành công  trên kiến trúc, sự kết hợp giữa vật liệu kiến trúc tháp Khmer với vật liệu đá là chủ yếu và vật liệu gạch Champa.
- Điểm nổi bật  của tháp Dương  Long là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố truyền thống nghệ thuật Champa với nghệ thuật Khmer, ảnh hưởng từ bên ngoài đưa lại.Nghệ thuật Champa được thể hiện qua các đề tài trang trí trên khối kiến rúc và họa tiết trang trí.Các đề tài trang trí mặt Kala được khắc tạc thuần thục mang đặc trưng Champa. Hình ảnh khối chân trụ hình vuông trang trí các núm vú kết dải vây quanh được kế thừa từ núm vú trang trí bệ thờ Trà Kiệu. Dải núm vú tròn trĩnh căng sức sông trên thân tháp, đế tháp là những đặc trưng riêng trong nghệ thuật điêu khắc Champa. Những dải họa tiết cánh sen tạc mềm mại, tỉ mỉ chi tiết là sự kế thừa từ những họa tiết trang trí của các phong cách nghệ thuật trước đều nói lên tính kế thừa, phát triển của nghệ thuật điêu khắc đá Champa thể hiện trên tháp Dương Long. Tính kế thừa ấy được phát triển lên trong giai đoạn nghệ thuật mới với khối nổi to, tạc rậm dày, thể hiện  đầy sức sống nội tại, góp phần định hình, tạo nên một giai đoạn nghệ thuật mới trong điêu khắc Champa.
- Bên cạnh những yếu tố nghệ thuật truyền thống, các yếu tố văn hóa, nghệ thuật Khmer ảnh hưởng đến kiến trúc giai đoạn này được thể hiện khá rõ.  Đỉnh nóc tháp Dương Long được tạo khối thể hiện tương tự những đỉnh tháp tại AngKo Thom, đó là những bông sen khổng lồ nở xòe cánh vươn lên chiếm lĩnh không gian. Đỉnh tháp Dương Long lớn nhất có đường kính đến 3,7m,  gồm nhiều cánh sen đá ghép lại với nhau tạo thành được coi là bông sen lớn nhất trong nghệ thuật Champa.
Đỉnh tháp tại AngKo Thom
 Nhưng ở Dương Long là sự kết hợp giữa vật liệu gạch làm cốt và đá là họa tiết trang trí bên ngoài. Ngoài bộ đỉnh tháp, thân các tháp tại Dương Long cũng được xây dựng mô phỏng theo bình đồ tháp đa cạnh của tháp Khmer.  Bốn góc chốt mái tháp là hình ảnh rắn Naga nhiều đầu vươn ra gần gũi với nghệ thuật
Vòm cửa giả tháp tháp Dương Long
kiến trúc tháp Khmer. Đặc biệt là hệ thống cửa giả chất liệu đá cho thấy đô nhô cửa giả ít, bộ vòm cửa cuốn hình lá đề tù, từ mặt Kala  trên đỉnh các đầu rắn Naga nhiều đầu nhô ra với thân dài uốn lượn. Naga ở tháp Dương Long được khắc tạc thể hiện như rắn Naga trong nghệ thuật điêu khắc Khmer với thân dài tròn co vẩy, cổ bành rộng, nhiều đầu rắn nhô ra dữ tợn, phía trên là tán che xòe rộng. Mô típ này được thể hiện khá phổ biến trên điêu khắc tháp Dương Long
Rắn Naga trong nghệ thuật Khmer
- Về đề tài thể hiện trên các phẩm điêu khác đá cho thấy bên cạnh những đề tài truyền thống trong nghệ thuật Champa như trang trí vòm cửa ( Typam) thể hiện hình ảnh các vị thần; dải núm vú  trang trí kéo dài; mặt Kala kết dải vây quanh; dải cánh sen nhiều lớp thể hiện  thì ở đây xuất hiện các mô típ được khắc tạc trang trí ảnh hưởng của nghệ thuật Khmer như rắn Naga; hình ảnh chim thần Garuđa thể hiện đứng trang trí góc tương tự như hình ảnh chim thần Garuđa trong nghệ thuật Angko Thom ( Bayon)
Như vậy có thể thấy tháp Dương Long là một sự kết hợp hài hòa, thành công trên cơ sở nền tảng của hai dòng nghệ thuật  có truyền thống lâu đời ở Đông Nam á: nghệ thuật kiến trúc tháp Champa và nghệ thuật kiến trúc Khmerr.Để tạo nên diện mạo, hình hài kiến trúc, điều nhận thấy yếu tố truyền thống trong nghệ thuật kiến trúc tháp Champa thể hiện qua bình đồ chân tháp, vật liệu xây dựng, kỹ thuật xây dựng cùng các đề tài trang trí truyền thống có mặt sớm thể hiện trong suốt chiều dài lịch sử điêu khắc Champa. Đây là những yếu tố cơ bản hình thành nên kiến trúc tháp Dương long. Bên cạnh đó, do yếu tố chi phối của lịch sử giai đoạn này, nghệ thuật Khmer có điều kiện gia nhập vào nền kiến trúc bản địa, các yếu tố nghệ thuật Khmer được thể hiện trên mặt bằng kiến trúc, khối  kiến trúc cùng nhiều họa tiết trang trí. Sự gia nhập này đưa
Garuđa tại di tích Angko Thom – TK12-13
kiến trúc Champa vào một thời kỳ mới, việc sử dụng chất liệu đá phổ biến trong xây dựng trang trí đã đưa ra bình đồ mới  với khối kiến trúc có quy mô lớn tạo nên công trình có quy mô hoành tráng, trang trí mỹ thuật đẹp.. Nếu trước đây các nhà nghiên cứu cho rằng tháp Dương Long ( Tháp Ngà) “ có mặt bằng không phải Chàm và ảnh hưởng của Khmer ở đây rất đậm nét…”( J.Boisselier – 1963) (7), thì kết quả khai quật cho thấy tháp Dương Long là sự kết hợp giữa hai loại mặt bằng Champa ( đế tháp) và Khmer ( thân tháp).H.Parmentier nhận ra “ Hình như ở đây nhà công trình sư ngoại quốc này phải thể hiện ý nghĩ của mình qua những tay thợ bản xứ.”( H. Parmentier 1909 -1918)(8). Sự hội nhập đã tạo nên hiệu quả mới trong nghệ thuật kiến trúc điêu khắc Champa thể hiện rõ tính thống nhất trong đa dạng, nói lên không gian mở của nền văn hóa này trong lịch sử./.
Tài liệu tham khảo:
1.Quách Tấn: Nước non Bình Định. NXB Thanh Niên -2001)
2.  Đại Nam nhất thống chí  NXB KHXH Hà Nội-1977
3. Ch.Lemire Les tours Kiames de la province de Bình Định. Sài Gòn -1887
4. H. Parmentier – Inventaire descriptif monuments Chams de l’Annam, Avol.Paris 1909 – 1918(Bản dịch tư liệu Viện Khảo cổ học).
5. Tham khảo thêm:
-  Lê Đình Phụng: Di tích Văn hoá Champa ở Bình Định. NXB KHXH. Hà Nội 2002.
- Ngô Văn Doanh: Văn hoá  cổ Champa. NXB Văn hoá Dân tộc. Hà Nội 2002
-Ngô Văn Doanh: Tháp cổ Champa sự thật và huyền thoại.NXB VHTT. Hà Nội 1998
6. Tham khảo thêm:
- Đinh Bá Hòa: Báo cáo sơ bộ khai quật tháp Dương Long năm 2006. Tư liệu BT tỉnh Bình Định.
- Bùi Chí Hoàng: Báo cáo sơ bộ Khai quật khảo cổ học khu di tích tháp Dương Long ( Tây Sơn – Bình Định).  2007.Tư liệu BT tỉnh Bình Định
7.J.Boisselier – Lastatuaire du Champa. Pa ris 1963( Bản dịch tư liệu Viện Khảo cổ học).

8.H. Parmentier – Inventaire descriptif monuments Chams de l’Annam, Avol.Paris 1909 – 1918(Bản dịch tư liệu Viện Khảo cổ học).

Thứ Hai, 18 tháng 5, 2015




VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN KHẢO CỔ HỌC
- - - - - - - - - - - ***- - - - - - - - - - - - -



LÊ ĐÌNH PHỤNG




ĐỐI THOẠI
VỚI NỀN VĂN MINH CỔ
CHAMPA







NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI
Hà Nội - 2015
LỜI ĐẦU SÁCH
 Văn hoá Champa là một nền văn hoá lớn, độc đáo, mang bản sắc riêng, có nhiều đóng góp quan trọng vào văn hoá dân tộc trong lịch sử và tỏa sáng đến ngày nay. Kế thừa từ văn hóa cội nguồn của tộc người và sự tiếp thu hội nhập từ văn minh Ấn Độ đưa lại, người Chăm đã xây dựng và phát triển tạo nên một nền văn hóa rực rỡ có mặt từ Nam đèo Ngang (tỉnh Quảng Bình) chạy dài theo dải đất miền Trung đến bờ Bắc sông Đồng Nai (tỉnh Bình Thuận), lan toả lên vùng cao nguyên đại ngàn hùng vĩ cùng hệ thống các đảo ven biển miền Trung.
Song hành cùng lịch sử nhà nước cổ Champa (từ cuối thế kỷ II đến thế kỷ XVII), người Chăm đã xây dựng và để lại một nền văn hóa vật chất phong phú đa dạng, trên nhiều loại hình, nhiều chất liệu khác nhau, đặc biệt là các đền tháp tráng lệ, các tác phẩm điêu khắc tinh tế cùng hệ thống thành quách, bi ký, các trung tâm sản xuất gốm, hệ thống thuỷ lợi... cùng đời sống tinh thần phong phú.
Hơn một thế kỷ nay, sự tinh tế đa dạng, giàu nhân bản của văn hóa Champa đã thu hút nhiều thế hệ học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Nhiều công trình khoa học về văn hóa Champa được công bố và ngày càng cuốn hút các thế hệ nghiên cứu mãi về sau.
Trong quá trình công tác ở Viện Khảo cổ học, tôi được phân công nghiên cứu về khảo cổ học Champa. Ngày ấy đất nước còn khó khăn, mỗi chuyến công tác của tôi là một cuộc vật lộn nhưng bù lại, được nhìn những kiến trúc tháp sừng sững, những tượng điêu khắc đá đẹp như mơ hay những trang sử đá chữ viết khác lạ khiến cho tâm hồn run rẩy. Sau năm 1975, nhiều học giả Việt Nam và nước ngoài có điều kiện đi sâu vào nghiên cứu văn hóa Champa, nhiều công trình nghiên cứu được xuất bản, tôi có điều kiện đọc và đi để chứng kiến, đối chiếu, mong để hiểu từng vấn đề trong lịch sử. Nhưng sau hơn 30 năm nghiên cứu nền văn hóa Champa để lại, tôi vẫn tự hỏi mình biết gì về nền văn hóa này và luôn cảm thấy mình là người “đứng bên lề”nền văn hóa ấy. Những câu hỏi luôn đặt ra trong tôi mà chưa có lời giải đáp. Không cách gì hơn, bằng kiến thức của mình, tôi tự độc thoại với nền văn minh trong quá khứ. Từ những ý kiến của các nhà nghiên cứu, nhiều vấn đề tưởng như đã có phần giải đáp; nhưng bằng những nhận thức riêng, tự đặt câu hỏi và tìm cách trả lời. Chính vì thế, ở đây tôi không nêu các thành tựu nghiên cứu đã đạt được mà chỉ nêu những vấn đề còn chưa có lời giải thỏa đáng. Các ý kiến trong cuốn sách này là của riêng tác giả mà người đọc có quyền đồng ý hay nghi ngờ, thậm chí phản đối. Rất mong nhận được sự hồi âm của bạn đọc gần xa. Để có được ấn phẩm trên tay, tôi chân thành cảm ơn Viện Khảo cổ học, Nhà xuất bản Khoa học xã hội đã tạo điều kiện cho cuốn sách được đến tay bạn đọc.
                                                             Tác giả
                                                                Lê Đình Phụng

















CHƯƠNG I
ĐỐI THOẠI VỚI CHỦ NHÂN NỀN VĂN HÓA CHAMPA
NGƯỜI CHĂM
Trước khi đến với văn minh cổ Champa, đầu tiên hãy đối thoại với chủ nhân sáng tạo ra nền văn minh ấy.
1. Người Chăm - là ai?
 Người Chăm - là ai? Nguồn gốc từ đâu, sinh sống như thế nào trong quá khứ? Một câu hỏi khó trả lời mặc dù ngày nay cộng đồng người Chăm vẫn hiện diện, góp phần tạo nên giá trị văn minh của thời kỳ mới trong cộng đồng chung 54 dân tộc sinh sống trên dải đất Việt Nam.
Câu hỏi ấy được các nhà khoa học đặt ra từ những đầu thế kỷ XX khi tiếp cận, nghiên cứu văn minh vật chất, tinh thần của người Chăm còn lại trên dải đất miền Trung.
Trước hết, khi tiếp cận các nguồn tài liệu các nhà nghiên cứu nhận thấy: “Tộc người Chăm cư trú trên lãnh thổ Việt Nam đã mấy nghìn năm, có thể từ những thế kỷ trước công nguyên. Ngôn ngữ của người Chăm thuộc dòng Malayo - Polinesien”[1]. Đó là nhận định của nhà nghiên cứu nhân chủng.
Các nhà khảo cổ trước đây khi tiến hành khai quật, nghiên cứu các di tích văn hoá Sa Huỳnh tại Quảng Ngãi, dựa vào tài liệu thu thập được M. Colani đã đưa ra giả thiết “Phải chăng người Chăm là hậu duệ của chủ nhân văn hoá Sa Huỳnh”[2]. Nhưng thật ra nhận định này chỉ dựa trên tư liệu vật chất, những tư liệu về nhân chủng còn thiếu sự thuyết phục.
Cho đến nay, trên 100 di tích thuộc văn hóa Sa Huỳnh được khai quật nghiên cứu nhưng tài liệu về xương cốt vẫn còn thiếu vắng. Hàng nghìn ngôi mộ gốm Sa Huỳnh được biết đến từ Quảng Bình đến Bình Thuận hay Tây Nguyên xa xôi, cùng những hiện vật trong mộ chum được xác định là thuộc văn hóa Sa Huỳnh, nhưng có đâu tìm được di cốt người xưa và người Sa Huỳnh thế nào vẫn là một câu hỏi. Những trống đồng từ văn hóa Đông Sơn của người Việt có mặt trên địa bàn Thừa Thiên - Huế; Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, Bà Rịa - Vùng Tàu, trên Cao Nguyên xa lắc hay bộ đồ đồng Đông Sơn có mặt trong di tích Hóa Quê(Quảng Ngãi) đã nói lên mối quan hệ giữa người Sa Huỳnh và các tộc người xung quanh, nhưng chủ nhân Sa Huỳnh vẫn là phần bỏ ngỏ.
Như vậy, trước khi tìm về nguồn gốc người Chăm, chúng ta phải đi ngược thời gian xa hơn tìm về nguồn gốc chủ nhân văn hoá Sa Huỳnh - người Sa Huỳnh.
Về chủ nhân văn hoá Sa Huỳnh, cho đến nay, dù nhiều nhà nghiên cứu thừa nhận rằng: “Hiện nay chúng ta hầu như không có tài liệu quan trọng nhất - tài liệu nhân chủng”1, dù rằng “chúng ta đã phát hiện ra hàng nghìn bộ chum văn hoá Sa Huỳnh từ giai đoạn sơ kỳ đến giai đoạn hậu kỳ. Nhưng xương cốt còn lại trong các mộ chum rất ít và không có khả năng xác định nhân chủng...”.
Nhưng có người dựa vào nội dung văn hoá đã đưa ra ý kiến: “Chủ nhân văn hoá Sa Huỳnh (giai đoạn sơ kỳ) rất có thể là người nguyên Malayo - Polinesien ( ProMalai - Polinesiens) hay nguyên Nam đảo ( Proto - Austronesiens)”[3], “...tiếng nói của chủ nhân văn hoá Sa Huỳnh là tiếng Nam đảo hay Malayo - Polinesien nhưng có nhiều yếu tố của tiếng nói Nam Á”[4]. Vậy người Sa Huỳnh có từ bao giờ và họ từ đâu đến. Nếu đúng như giả thiết nêu trên thì dựa vào cội nguồn của ngôn ngữ Malayo - Polinesien có hai giả thiết được quan tâm.
- Giả thiết thứ nhất cho rằng khu vực hình thành ngôn ngữ Malayo - Polinesien. Khu vực hình thành ngôn ngữ Malayo - Polinesien là miền Đông Nam Trung Quốc, từ đó lan truyền xuống Đông Nam Á và châu Đại Dương. “Bộ phận lớn đi xuống phía Nam mà con đường chính là từ Đài Loan qua Philippines; xâm nhập Indonesia rồi tới châu Đại dương; một số vào lục địa, đến Malaca (người Mã Lai), đến Trung bộ Việt Nam (người Chăm). Ngoài ra có con đường phụ men bờ biển Việt Nam đi xuống từ đó lại vượt biển ra đảo ”[5].
 - Giả thiết thứ hai cho rằng khu vực hình thành đầu tiên của ngôn ngữ Malayo - Polinesien là vùng đảo Đông Nam Á, mà trung tâm là từ miền Đông Indonesia tới Nam Philippines rồi phát triển dần ra xung quanh “Giai đoạn ngôn ngữ Nam đảo lan rộng ra xung quanh ước định vào thiên niên kỷ II trước Công nguyên, từ Bắc tới Nam Trung Quốc; Đông tới Pôlinêdi. Cũng vào giai đoạn này, tổ tiên người Chăm đến duyên hải Việt Nam và để lại dấu tích trong các di chỉ thuộc phức hệ văn hoá Sa Huỳnh”[6].
Tóm lại, về người Sa Huỳnh có nhiều giả thuyết khoa học khác nhau, nhưng tựu trung lại có hai ý kiến chính:
 - Một là, nhóm cư dân từ Trung Quốc thiên di đi xuống bằng đường bộ, đường biển tới miền Trung Việt Nam ngày nay và đi ra các vùng hải đảo Đông Nam Á (Heine - Geldern,1932; P. Maxpero, 1927; Ph. Stern,1948; Coedes, 1964; Bình Nguyên Lộc, 1971; Tạ Đức, 2013...)
 - Hai là, người Sa Huỳnh từ biển đi vào lục địa Đông Nam Á trong đó có miền Trung Việt Nam (Blust, 1983; Bellwood, 1985; Thurgood, 2009...)[7].
Về khoa học, sự trùng hợp về không gian văn hoá giữa văn hóa Sa Huỳnh và Champa trong nghiên cứu của các nhà nhân chủng và khảo cổ đều có chung giả thuyết cho rằng người Chăm có nguồn gốc từ người Sa Huỳnh.
Văn hoá Sa Huỳnh là một nền văn hoá lớn được phát hiện với diện phân bố khá rộng, kéo dài từ vĩ tuyến 11012’ (Bình Thuận) đến vĩ tuyến17 054’ (Quảng Bình).
Di tích văn hoá Sa Huỳnh xa nhất ở phía Bắc là Cổ Giang(Quảng Bình), về phía Nam đến các di tích ven bờ sông Bắc Đồng Nai(Bình Thuận), về phía Đông là hàng loạt các di tích trên chuỗi đảo ven bờ như Cù Lao Chàm(Quảng Nam); Cù Lao Ré (Đảo Lý Sơn - Quảng Ngãi); đảo Phú Quý(Bình Thuận); về phía Tây, văn hoá Sa Huỳnh có mặt trên khắp các tỉnh Tây Nguyên như các di tích Lung Leng(KonTum); Trà Dôm, Biển Hồ(Gia Lai); Buôn Triết(Đắc Lắc). Theo một số nhà nghiên cứu, văn hoá Sa Huỳnh còn ảnh hưởng rộng đến các vùng đất Đông Nam Bộ[8]. Đặc biệt vùng đất đậm đặc dấu vết văn hoá Sa Huỳnh là dải đất đồng bằng ven biển miền Trung: Thừa Thiên - Huế; Quảng Nam; Quảng Ngãi; Bình Định... có thể coi là những trung tâm, nơi phát triển đỉnh cao của nền văn hoá này. Như vậy, có thể thấy về không gian văn hoá Sa Huỳnh chiếm lĩnh toàn bộ vùng đất phía Nam Trung Bộ, trên đủ mọi địa hình: núi, đồng bằng, hải đảo. Không gian vùng đất này hoàn toàn trùng khớp với địa bàn cư dân Champa cư trú sau này trong lịch sử gần một thế kỷ nghiên cứu văn hoá Sa Huỳnh, các nhà nghiên cứu đã nhận định: “Văn hoá Sa Huỳnh là một văn hoá kim khí bản địa ở miền Nam Trung Bộ nước ta, có quá trình phát triển liên tục kế tiếp nhau từ đầu thời đại đồng thau đến đầu thời đại sắt...”[9]. Dựa vào số lượng hiện vật thu được qua các cuộc khai quật, qua nghiên cứu phân tích so sánh đối chiếu, các nhà nghiên cứu cho biết: “Cư dân văn hoá Sa Huỳnh là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước... Chắc chắn bên cạnh trồng lúa, cư dân Sa Huỳnh cũng đã trồng các loại cây ăn quả, ăn củ, cây có sợi (bông; đay; gai...) để phục vụ nhu cầu ăn, mặc của mình. Do môi trường sinh sống ven biển, kề rừng, chắc hẳn họ đã biết khai thác triệt để nguồn lợi của biển (đánh bắt, chế biến các loại hải sản); của rừng (khai thác gỗ, hương liệu, trầm hương, quế); khai thác khoáng sản (vàng, bạc, hổ phách, đá ngọc, mã não...)
Bên cạnh nghề nông trồng lúa nước, cư dân văn hoá Sa Huỳnh còn phát triển các nghề thủ công như xe sợi, dệt vải, chế tạo gốm, làm đồ trang sức và luyện kim đồng thau, sắt, nấu thuỷ tinh... Nghề thủ công chế tạo đồ trang sức của cư dân văn hoá Sa Huỳnh không chỉ nhằm phục vụ cho nhu cầu thẩm mỹ của chính họ mà chắc rằng còn để trao đổi, buôn bán nữa... Và họ có thể đã bước vào một xã hội có giai cấp và nhà nước sơ khai, là tiền đề cho sự ra đời của vương quốc Champa cổ đại ”[10].
Từ những thành tựu nghiên cứu trên, khi so sánh đối chiếu văn hoá Champa với văn hoá Sa Huỳnh, các nhà nghiên cứu nhận thấy: “Người Chăm cũng là cư dân nói tiếng Nam Đảo hay Malayo - Polinesien và tiếng Chăm cũng đã pha trộn nhiều yếu tố tiếng Nam Á”[11] và chỉ ra những yếu tố tiếp nối phát triển từ văn hoá Sa Huỳnh lên văn hoá Champa:
- Thư tịch cổ Trung Hoa thế kỷ VI cho biết, người Chăm: “mắt sâu, mũi cao, da đen, tóc đen" biết làm ruộng hai mùa lúa, trồng dâu nuôi tằm, một năm tám lứa tơ, trồng bông dệt vải, nhuộm 5 màu “đến nay đã 600 năm” nghĩa là từ đầu Công nguyên"[12]
 người Chăm là sự tiếp nối truyền thống văn hoá nông nghiệp lúa nước từ người Sa Huỳnh.
- Thư tịch cổ Trung quốc thế kỷ III (Bão Phác Tử Nội Thiên) viết người Chăm biết nấu cát làm thuỷ tinh, trong cống phẩm của Champa cho Trung Quốc có đồ thuỷ tinh. Đây là nghề thủ công kế thừa từ nghề thủ công nấu thuỷ tinh của người Sa Huỳnh.
- Theo thư tịch cổ Trung Hoa (Nam sử - Di Mạnh Truyện) người Chăm có tục hoả táng “Người chết thì đem đốt ở giữa đồng gọi là hoả táng”. Tuỳ Thư còn cho biết rõ: “Đốt xong thu dư cốt, vua thì bỏ vào bình vàng, quan thì bỏ vào bình đồng, thường dân thì bỏ vào bình đất mà thả xuống sông” hay cửa biển. Đây là sự kế thừa phong tục táng tục từ cư dân cổ Sa Huỳnh.
- Người Chăm cũng ưa thích và hay sử dụng đồ trang sức bằng vàng, đồ ngọc, mã não. Một truyền thống sử dụng trang sức trong văn hoá Sa Huỳnh.
- Nghề khai thác biển, khai thác rừng của người Chăm phát triển là sự tiếp nối nghề biển, nghề rừng của người Sa Huỳnh[13]. “Tóm lại không có sự đứt gãy mà chỉ có sự tiếp nối giữa văn hoá Sa Huỳnh và văn hoá dân gian Chăm”[14]. “Từ thực tiễn khảo cổ học đã đề cập trên về văn hoá Sa Huỳnh và văn hoá Champa, chúng ta có thể suy luận một cách lôgíc rằng: văn hoá Champa đã nảy sinh từ văn hoá Sa Huỳnh và người Chăm cổ là con cháu của người Sa Huỳnh xưa”[15].
Như vậy, có thể nói, gần một thế kỷ nghiên cứu cho đến nay đa phần ý kiến đều cho rằng người Chăm, văn hoá Chăm là sự kế thừa trực tiếp từ văn hoá Sa Huỳnh đi lên. Từ tầng nền văn hoá Sa Huỳnh phát triển rực rỡ đạt ngang tầm với các nền văn hoá của các tộc người trong khu vực. “Rất có thể, quốc gia Chăm mà Khu Liên đã lập nên ở miền đất này vào thế kỷ II sau Công nguyên chỉ là sự tiếp nối nhà nước Sa Huỳnh đã ra đời vào cuối giai đoạn Sa Huỳnh hậu kỳ ” (14)[16]. Từ những giả thuyết đó có thể chấp nhận tổ tiên người Chăm là chủ nhân văn hóa trước đó là Sa Huỳnh. Mặc dù vậy, các nhà nghiên cứu vẫn cẩn trọng “...để chứng minh sự phát triển kế tiếp giữa văn hoá Champa và văn hoá Sa Huỳnh... chúng ta cần có nhiều tài liệu hơn nữa, đặc biệt là tài liệu khảo cổ học về văn hoá Sa Huỳnh và văn hoá Champa sớm. Đây là khâu mấu chốt, quyết định...”[17].
Trong nhiều năm gần đây, việc nghiên cứu văn hoá Champa được đẩy mạnh, nhiều cuộc khai quật các di tích cư trú Champa được tiến hành, đặc biệt tại địa điểm Trà  Kiệu (Quảng Nam) được coi là vùng đô cũ đầu tiên của tộc người Chăm trong lịch sử. Kết quả khai quật tại Trà  Kiệu cho thấy có một lớp văn hoá Chăm sớm, không thuộc văn hoá Sa Huỳnh, nổi bật lên trong các hiện vật thu được là đồ “gốm thô, xương dày, pha nhiều cát, màu vàng nghệ nhạt, hoa văn chải thô, một số mảnh đáy của loại hình bình đáy nhọn rất dày và thô”[18]. Đồ gốm thô này gọi “là gốm tiền Chàm thì đúng với tình trạng khai quật hơn gọi là đồ gốm Sa Huỳnh”. Niên đại của lớp sớm này “...có thể còn trước thời Đông Hán, tức là trước công nguyên một quãng thời gian một vài thế kỷ”[19].
Các cuộc khai quật ở đây những năm tiếp theo 1996, 1997, 1998, 2000 thu được các loại hình hiện vật càng khẳng định thêm kết luận đã nêu: “Tại di tích Trà  Kiệu, hiện tượng cư chiếm sớm nhất bắt đầu vào khoảng thế kỷ I - II trước Công nguyên cho đến thế kỷ I - II sau Công nguyên, đại diện của lớp cư chiếm này là tầng nhiều than cháy và gốm thô, rất hiếm gạch ngói và nếu có chỉ có ngói văn thừng dấu vải. Sự có mặt của bình hình trứng là đặc điểm lớn nhất của lớp này”[20]. Niên đại các địa điểm này tương đương với một số di tích văn hoá Sa Huỳnh muộn nhưng lại không thuộc văn hoá Sa Huỳnh mà được các nhà khai quật gọi là tiền Champa.
Chính vì thế, vấn đề đặt ra là văn hoá Champa ngoài nguồn gốc văn hoá Sa Huỳnh là chủ đạo còn có nguồn khác gần gũi với Sa Huỳnh góp phần tạo nên văn hoá Champa sau này. Sự phát triển của các nền văn hoá tạo nên văn hoá Champa không phải là đơn tuyến mà là đa tuyến. Điều này càng được tin cậy khi cuộc khai quật di chỉ cư trú tại Gò Cấm (xã Duy Trung; huyện Duy Xuyên) cách thành Trà  Kiệu không xa, tại đây cũng có một lớp văn hoá tương đương với Trà  Kiệu, niên đại thế kỷ I trước Công nguyên và thế kỷ I sau Công nguyên. Cuộc khai quật di chỉ Hoà Diêm (Khánh Hoà) năm 2002 với số lượng lớn hiện vật tìm được bao gồm đồ gốm, công cụ sắt, đồ trang sức hạt chuỗi bằng vàng cho thấy, cư dân ở đây có nền kinh tế phát triển cao, sớm hơn cư dân Champa; nhưng cũng cho thấy, lớp văn hoá này không phải văn hoá Sa Huỳnh, thể hiện đặc biệt rõ trên đồ gốm và có niên đại tương đương Sa Huỳnh muộn, cùng có mối quan hệ chặt chẽ với văn hoá Champa[21]. Chủ nhân loại hình di tích này không phải người Sa Huỳnh nhưng chắc chắn gần gũi với người Sa Huỳnh. Phải chăng bên cạnh người Sa Huỳnh còn có những nhóm người cùng ngữ hệ Malayo - Polinesien, chủng tộc Anhđôniêdiêng cùng tồn tại song song trên các vùng lãnh thổ để sau này hoà nhập cùng người Sa Huỳnh phát triển thành người Chăm tạo nên nền văn hoá Champa trên dải đất miền Trung trong lịch sử.
Như vậy, chủ nhân nền văn minh Champa tiếp nối văn hoá Sa Huỳnh ở Miền Trung là người Chăm, người Chăm có thể là người Sa Huỳnh, nhưng cũng có thể không phải là người Sa Huỳnh, hoặc có thể có một nhóm người xuất hiện xâm cư vào địa bàn của người Sa Huỳnh, kết hợp với người Sa Huỳnh tạo nên nền văn minh này.2
Thảo luận về nguồn gốc người Chăm, có ý kiến cho rằng, người Chăm là nhóm người từ biển đi vào, họ chọn nơi cư trú là dải đất miền Trung xâm cư với người Sa Huỳnh và xây dựng nên nền văn minh Champa.
Không hiểu từ nguồn tư liệu nào, năm 1933 khi viết cuốn Địa chí Quảng Ngãi Tuần phủ Nguyễn Bá Trác làm chủ biên đã viết về vùng đất miền Trung: “Chỉ là một dải đất dài dằng dặc, bên thời núi, bên thời bể... Thổ dân tính chất hiền lành yên tĩnh, ở bên nước Văn Lang mà không thấy đánh phá bao giờ. Tiếc thay không được biết rõ nguồn gốc và cách sinh hoạt của dân ấy. Vả lại chẳng bao lâu vì ngọn lửa chiến tranh mà cuộc thế chuyển truyền mà dân tộc ấy phải tiêu diệt, một dân tộc khác thế vào gọi là người Chăm... Và dân tộc mới này là ai? Ở đâu đến và đến lúc nào? Tác giả (vô danh) của một quyển Nam sử chép rằng: mấy trăm năm về trước kỷ nguyên, miền trung châu sông Cửu Long tức là Cao Man bây giờ có người Chàm ở. Sau cứ theo lịch sử chép về vua Cao Man thời 289 trước kỷ nguyên, vua Chàm Acohay bị người Khmer là ông bà người Cao Miên bây giờ đánh lấy mất nước Chân Lạp(Cao Miên), thành thử người Chàm phải tràn qua phía Đông - Nam, rồi theo bờ biển mà tràn mãi ra phía Bắc khắp các tỉnh Trung Nam kỳ bây giờ...” [22]
Theo như ý kiến tác giả, người Chăm là tộc người di cư đến miền Trung vài trăm năm trước công nguyên, họ không đến từ biển mà từ phía Nam lại, họ đã tiêu diệt tộc người đang sinh sống ở đây và thế chỗ quản lý vùng đất. Như vậy, lớp người đầu tiên ở đây là “Thổ dân tính chất hiền lành yên tĩnh” sau đó là lớp người Chăm làm nên văn hoá Champa sau này. Độ tin cậy của giả thuyết này có lẽ còn kiểm chứng nhưng có thể ghi nhận rằng giả thiết này có phần nào cũng phù hợp với tư liệu khảo cổ học được nghiên cứu qua vật chất tại cuộc khai quật tại Trà  Kiệu cho thấy trên lớp gốm văn hoá Sa Huỳnh, có một lớp gốm không phải Sa Huỳnh được gọi là gốm Chăm sớm. Những phát hiện di tích Sa Huỳnh trên vùng đất Tây Nguyên phải chăng là do người Sa Huỳnh bị “xô đẩy” khỏi dải đất ven biển miền Trung họ lên cao nguyên sinh sống. Hay khi nghiên cứu về di vật các tác phẩm điêu khắc các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy không có những tác phẩm nào sớm phù hợp với thời điểm lịch sử ghi chép về sự xuất hiện của nhà nước cổ độc lập Champa.
Tán đồng quan điểm này, có ý kiến " Tổ tiên của người Chàm từ các hải đảo Mã Lai, Nam Dương tràn lên bờ biển Trung Việt ngày nay từ nhiều thế kỷ trước Tây lịch kỷ nguyên. Ở đấy, họ tiếp xúc với thổ dân là người Kiratas, thuộc giống Indonesiens; số người Kiratas không chịu họ chế ngự thì dồn lên ở các miền núi Trường Sơn, những người ấy sau này chúng ta gọi là Mọi"[23]
 Một công trình nghiên cứu cho rằng: “Trước khi người Chăm đến Trung phần Việt Nam đã có tộc người nói tiếng Môn - Khmer cư ngụ ở đó rồi và giống dân nói tiếng Môn - Khmer này đã hình thành một nhóm quan trọng để tạo nên nước Lâm Ấp”[24]. Như vậy, theo tác giả, nhóm người Môn - Khmer mới là dân bản địa, còn cư dân Chăm là người đến sau.
Trong công trình nghiên cứu khác viết: “...người Chăm gồm hai nhóm di dân nói tiếng Kadai (trung gian giữa tiếng Thái và tiếng Nam Đảo): nhóm Kam từ hai nước Ngô - Việt vùng Đông Nam Trung Quốc; nhóm Lê từ bán đảo Lôi Châu, Quảng Đông, đảo Hải Nam và vùng biển Bắc Việt Nam. Cả hai nhóm đi bằng đường biển là chính và vào thời giam khác nhau. Nhóm Kam đến trước là chủ thể của các nước Lâm Ấp, Champa, Phù Nam với vua quan họ Phạm. Nhóm Lê đến sau là tổ tiên trực tiếp của các tộc Ê Đê, Gia Rai, Chu Ru ở Tây Nguyên” và cho rằng “Nhóm thứ nhất đến trước là người Kam, sau khi nước Ngô bị nước Việt thôn tính, đã di tản đến miền Trung Việt Nam và nhiều nơi khác ở Đông Nam Á bằng đường biển, là chủ nhân của văn hoá đồ sắt Sa Huỳnh và sau đó là tộc người chủ thể của các nước Lâm Ấp, Champa và Phù Nam. Nhóm thứ hai đến sau là người Lê gốc Hải Nam nhưng đã sống lâu đời ở vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh và đã di tản bằng cả đường biển và đường bộ đến vùng Bình Trị Thiên sau cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan bị thất bại năm 722. Từ thế kỷ 9, họ giành quyền thống trị nước Champa”[25]. Tất nhiên đây cũng là một giả thuyết khoa học lý giải về nguồn gốc của người Chăm.
Gần đây trong có công trình nghiên cứu còn cho biết: “...một vài sử gia Ấn Độ đã nói đến việc cộng đồng Champa ở Việt Nam không ai khác chính là những người Ấn, là các thương nhân Ấn Độ đã mang hàng hóa đến Việt Nam và trải qua một thời gian, họ đã kiến lập nên các vương quốc của mình..." " Trên thực tế, người Chăm của Việt Nam chính là hậu duệ của những người Ấn Độ đã di cư đến Việt Nam. Dường như những người Ấn đầu tiên định cư tại Việt Nam đã đến từ vùng Chămpa ( tức Bhagalpur, thuộc bang Bihar), và đó có thể là lý do tại sao họ tự gọi mình là cộng đồng Chămpa. Về sau cũng có những di dân từ các vùng khác của Ấn Độ như Kalinga (bang Orissa), Amaravati (bang Andhra Pradesh) và Gujarat gia nhập vào cộng đồng Chămpa và họ cũng tự gọi mình là người Chăm hay Chămpa" và " Dân Ấn đã sống chan hòa với cư dân bản địa đến mức một thời gian sau, người Ấn đã trở thành một bộ phận không thể tách rời trong xã hội và nhân chủng của họ khó có thể phân biệt được với nhau...”[26].
Theo quan điểm của tác giả, người Chăm là sự hòa huyết của người Ấn di cư với cư dân bản địa tạo nên. Điều này được xem là hướng mở khi nghiên cứu nhân chủng về người Chăm.
Vậy người Chăm như thế nào?
Những ghi chép đầu tiên trong sử liệu Trung Quốc cho biết: “Người nước đó tóc quăn, da đen. Tục đều đi chân đất”[27] hay “Người nước đó mắt sâu, mũi cao, tóc quăn da đen”[28]. Ngoài thông tin ngắn ngủi đó không có một thông tin nào về nhân chủng của tộc người này. Sau này, khi nghiên cứu những người Chăm hiện đại về nhân chủng, đa phần ý kiến cho rằng người Chăm thuộc chủng tộc Anhđônêdiên “người Chăm có tầm vóc trung bình so với những cư dân đa số ở Đông Nam Á (thường thuộc nhóm loại hình Nam Á) nhưng tương đối cao hơn các tộc ít người ở miền núi (thường thuộc nhóm loại hình Anhđônêdiên); kích thước đầu và mặt vừa phải, nhưng hộp sọ hơi rộng ngang khiến dạng đầu khá tròn (ngắn), cánh mũi không rộng lắm, theo chỉ số là dạng mũi trung bình, khe mắt ít xiên, nếp mi góc phát triển rõ... Xét tổng hợp các tài liệu đã phân tích thì người Chăm có nhiều đặc điểm gần với nhóm loại hình Nam Á như tầm người trung bình, dạng hộp sọ ngắn, rộng ngang, dạng mặt ngắn nhưng thiên về phía trung bình, cánh mũi rộng vừa phải, dạng mũi cũng theo chỉ số thuộc dạng trung bình, môi dày, môi trên dô... Đồng thời người Chăm lại có một số nét tựa nhóm loại hình Anhđônêdiên: mặt hơi hẹp ngang, da sẫm màu, tần suất tóc uốn tăng.” [29].
Người Chăm hiện nay
(Nguồn: Trung tâm nghiên cứu văn hóa Champa - Ninh Thuận)
 Người Chăm hiện nay đúng như sử liệu Trung Hoa để lại cho biết là họ có " nước da đen, mắt sâu, mũi cao, tóc quăn”. Cùng nguồn gốc ngôn ngữ Malayo - Polinesien và đặc điểm nhân chủng với người Chăm ngày nay cư trú trên địa bàn Tây Nguyên còn có các tộc người anh em như Ê Đê, Gia Rai, Chu Ru, Kờ Tu... Gần gũi hơn nữa có 2 tộc người là Chăm Kho và Chăm Hre, họ tự nhận là một nhánh của người Chăm xưa và có đời sống văn hoá tương tự như người Chăm từ trong lịch sử và trong đời sống văn hoá hiện nay, họ có nhiều gắn bó với văn hoá của người Chăm hiện tại. Mặc dù lược qua những tài liệu cơ bản về tộc người Chăm xưa và nay, nhưng vấn đề đặt ra vẫn bỏ ngỏ. Người Chăm có phải là người Sa Huỳnh? Cho đến hôm nay người Sa Huỳnh như thế nào vẫn là câu hỏi dành cho các nhà nghiên cứu! Người Chăm trong lịch sử họ có nguồn gốc Malayo - Polinesien hay Môn - Khmer cổ hay không, chúng ta cũng chưa có tài liệu khẳng định chắc chắn và có những ý kiến khác nhau. Người Chăm hiện nay về nhân chủng có nguồn gốc Polinesien, họ có phải là hậu duệ của người Chăm xưa hay không cũng cần có những tài liệu khoa học tin cậy. Đó là những vấn đề mở ra để các nhà khoa học tiếp tục trả lời. Điểm qua nguồn gốc của người Chăm trong lịch sử mong góp phần nhận diện tộc người Chăm, phần nào trả lời câu hỏi “Người Chăm là Ai?” và làm tiền đề để đối thoại với nền văn minh người Chăm đã dựng xây, góp một bản sắc riêng vào văn hóa dân tộc để lại cho đến ngày nay.
Theo tài liệu điều tra dân số gần đây, hiện nay trên lãnh thổ Việt Nam người Chăm có khoảng trên 161.729 người[30], sinh sống tập trung chủ yếu trên dải đồng bằng nhỏ hẹp thuộc hai tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, ngoài ra còn một bộ phận không nhiều cư trú rải rác trên địa bàn các tỉnh An Giang, Đồng Nai, Tây Ninh và Thành phố Hồ Chí Minh. Một bộ nhỏ khác sống xen cư cùng cộng đồng người Việt trên địa bàn các tỉnh Thừa Thiên - Huế (Vân Thê), Quảng Nam (Đồng Dương, Đại Lộc), Bình Định (An Nhơn, Vân Canh ), Phú Yên (Đồng Xuân, La Hai). Tài liệu còn cho biết do biến động của lịch sử cùng sự ảnh hưởng lại qua của các nền văn hoá trong khu vực, người Chăm còn có mặt ở nhiều nước Đông Nam Á như Campuchia, Thái Lan, Lào, Malaysia, Indonesia...[31]. Trong lịch sử, quá trình tồn tại phát triển tạo nên diện mạo văn hoá Champa người Chăm chủ nhân của nền văn hoá này có bao nhiêu người, con số này cho đến nay không có nguồn tài liệu nào. Tài liệu lịch sử các tộc người liên quan như sử liệu Việt Nam, Trung Quốc hay các văn bia của người Chăm để lại đều không ghi chép. Một công trình nghiên cứu công bố trước đây dự tính người Chăm trong lịch sử có khoảng dưới 2,5 triệu “Dân cư không đông lắm và chắc chắn không lên tới 2,5 triệu như xứ Trung Kỳ ngày nay”[32].
Mặc dù con số dân cư Chăm chưa bao giờ được ghi chép chính thức bằng văn bản nhưng qua những tư liệu lịch sử ghi chép về số người liên quan đến các sự kiện được biết có thể ước tính được tổng số dân số. Sử liệu cho biết năm 100 thời Vĩnh Nguyên thứ 12 hơn 2000 người Nhật Nam nổi dậy bắt đầu từ huyện Tượng Lâm ở phía Nam. Năm 144 “Mùa Đông, tháng 10, người Nhật Nam lại đốt quận ấp”. “Năm thứ 3 hiệu Vĩnh Thọ đời Hoàn đế người trong huyện là bọn Chu Đạt cùng với tụi Mường Mọi đông đến bốn năm nghìn người họp nhau đánh huyện lệnh... Đô uý Cửu Chân là Nguỵ Lãng đánh phá chém được hai nghìn người...”[33]. Tài liệu ban đầu cho thấy, những thế kỷ đầu, vùng đất quận Nhật Nam, phía Bắc Champa ngày nay (khu vực từ Quảng Bình đến Quảng Nam) số lượng dân cư không đông lắm. Nếu năm 144 có đến 4.000 - 5.000 người tụ họp đánh huyện lệnh thì giả sử 50% dân số đủ sức (người khỏe mạnh) tham gia, còn 50% người già yếu, trẻ con không tham gia thì dân số ở đây cũng chỉ khoảng trên dưới 10.000 người.
Năm 605, Lưu Phương là viên quan nhà Tùy cai trị Giao Chỉ đem quân đánh cướp Lâm Ấp “bắt tù hàng vạn người”chắc cũng chỉ là con số phiếm chỉ, ra oai chứ thực ra số lượng người Chăm đâu có nhiều như vậy. Theo Tùy Thư, tư liệu về Lâm Ấp sau cuộc chinh phục của Lưu Phương có lập 3 quận mới là: Quận Tí Cảnh với 4 huyện gồm 1.815 hộ; Quận Hải Âm có 4 huyện với 1.100 hộ; Quận Lâm Ấp có 4 huyện với 1.220 hộ. Tổng cộng 3 quận mới có 4.135 hộ[34]. Giả thiết mỗi hộ có 3 đời chung sống, số người trong mỗi hộ nhiều là 9 người, ít là 6 người sinh sống trong một hộ thì số dân Lâm Âp bấy giờ khoảng từ 25.000 đến 37.000 người. Tất nhiên đây là số dân vào đầu thế kỷ VII mà địa bàn cư trú khoảng từ Quảng Bình, đến Quảng Nam mà thôi. Cựu Đường thư ghi chép cho biết “Thị vệ của nhà vua có 5.000 quân, đều dùng nỏ, kích và toan - một loại vũ khí giống kích, lấy mây làm áo giáp, lấy tre làm cung, cưỡi voi để chiến đấu”[35]. Đây là đội quân thường trực chính bảo vệ vua ở kinh đô mà có 5.000 thì số lượng quân đội khó có thể nhiều như vậy. Theo Tống sử ghi lại về quản lý hành chính “cả nước chia làm 38 châu lớn nhỏ. Nhân số không đến 3 vạn nhà. Cả xã có hơn 100 xã thôn, mỗi thôn gồm 300, 500, 700nhà”[36]. Theo ghi chép trên, giả sử có đến 30.000 nhà, mỗi nhà có 3 thế hệ sinh sống chung, mỗi thế hệ khoảng 2-3 người thì mỗi nhà có từ 6 đến 9 người. Tổng số dân Champa bấy giờ ước khoảng 180.000-270.000 người. Đây là con số không đông nếu phân bố đều ra không gian người Chăm quản lý từ Quảng Bình đến Bình Thuận.
Liệu có thể lấy ước lượng quân số 4 trận chiến tiêu biểu của người Chăm - Việt thử luận về dân số Champa được không?
 Cuối thế kỷ X (979), khi triều đình nhà Đinh xảy ra nội biến rối loạn: “Phò mã Ngô Nhật Khánh dẫn thuyền quân Chiêm Thành hơn nghìn chiếc vào cướp muốn đánh thành Hoa Lư...”[37]. Nếu đúng như sử ghi, giả thiết mỗi thuyền chiến quân Chiêm Thành có từ 30 đến 50 người lính thì thủy quân Chiêm Thành có khoảng 30.000 đến 50.000 người. Để huy động được số quân này, nếu chiếm 10% đến 15% dân số thì người Chăm bấy giờ có khoảng 300.000-500.000 người (tỉ lệ 10%) hoặc trên dưới 1 triệu người[38]. Con số khoảng trên dưới 1 triệu người có khả năng thuyết phục hơn. Con số này vẫn khác xa, gấp khoảng 4-5 lần với con số ước tính như Tống sử ghi lại. Cuộc chiến năm 1044, Lý Thái Tông dẫn quân đi đánh Chiêm Thành, đánh vào kinh đô Chiêm Thành “...chém được 3 vạn thủ cấp ...đoạt được hơn 30 voi thuần, bắt sống hơn 5.000 người”[39].
Năm 1069, do người Chăm “...lại quấy nhiễu biên giới”, Lý Thánh Tông xuất quân chinh phạt phương Nam”Mùa xuân, tháng Hai, vua thân đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua nước ấy là Chế Củ (Rudravarman III) và dân chúng 5 vạn người”3. Ông cho kiểm tra hộ khẩu được 2.560 hộ, ra lệnh đốt hết tất cả những nhà nào dựng trong nội và ngoại thành Vijaya. Riêng kinh đô Vijaya có 2.560 hộ, nếu tính theo tỉ lệ mỗi hộ 6 người đến 9 người như trên thì kinh đô có khoảng trên 15.000 đến 23.000 dân, nhưng sử liệu lại cho biết là bắt được đến 5 vạn dân (50.000); mà chúng ta biết rằng thời kỳ này quá trình đô thị hóa chưa cao thì số dân trên là chấp nhận được. Với con số ghi chép về số người bị giết trên là thực, nếu tính theo tỷ lệ quân lính và người dân đã nêu thì dân số Chăm thời kỳ lịch sử này khoảng 1 triệu đến hơn 1 triệu là hợp lý.
Minh thực lục có ghi lại cuộc chiến năm 1450 người Việt mang quân đánh Chiêm Thành và đưa về Việt Nam khoảng 33.500 người 4. Cuộc chiến năm 1471, vua Lê huy động “hơn 1. 000 chiến thuyền, hơn 70 vạn tinh binh” 5 đi đánh Chiêm Thành, khi đánh vào kinh đô Vijaya “bắt sống hơn 3 vạn người, chém hơn 4 vạn thủ cấp” 6. Nếu lấy số 4 vạn là quân lính thì với tỉ lệ 10% dân làm lính dân số sẽ khoảng 400. 000 người và lấy lính đến 15% thì dân số trên 300. 000 người. Từ những tư liệu trên có thể suy đoán dân số người Chăm sinh sống trên dải đất miền Trung cao nhất trong lịch sử không quá hơn 1 triệu người. Điều này cũng phù hợp với mật độ dân số nước ta trong lịch sử. Tài liệu lịch sử Việt Nam cho biết, trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược năm 1285, khi nhà Trần tạm thời thất bại giai đoạn đầu cuộc kháng chiến, vua Trần lui quân về Thanh Hóa. Vua Trần vẫn tin tưởng cuộc kháng chiến thắng lợi và cảm khái viết nên vần thơ:
 Cối kê cựu sự quân tu ký
 Hoan Diễn do tồn thập vạn binh
 (Cối Kê chuyện cũ người nên nhớ
 Hoan Diễn còn kia chục vạn quân)[40]
Hoan Diễn là vùng đất Thanh - Nghệ hiện nay. Nếu tính theo tỉ lệ 10% dân làm lính thì dân số vùng này khoảng 1 triệu và 15% thì dân số khoảng trên 700.000.
Đây là con số chấp nhận được, một cách tính khi nhận biết số lượng người dân trong lịch sử. Nếu tạm chấp nhận số dân Champa trong lịch sử có khoảng trên dưới 1 triệu người là chủ nhân của nền văn hóa Champa thì trong quá trình hội nhập vào lãnh thổ chung dân tộc, số người Chăm này họ ở đâu, đi đâu sau này?
2. Người Chăm ra phía Bắc.
Có thể nhận thấy vấn đề này qua các tài liệu lịch sử. Trước hết là nói về số lượng người Chăm ngược ra Bắc. Do biến động lịch sử, người Chăm đi ra Bắc có hai dòng chuyển cư chính:
Dòng chuyển cư cưỡng bức gồm những người bị bắt buộc đưa về Bắc sau những cuộc tiến quân về phía Nam của các triều đại phong kiến Việt Nam. Đây là lực lượng chủ yếu, chiếm số đông và trong nhiều triều đại khác nhau.
Dòng chuyển cư tự nguyện gồm những người Chăm tự nguyện chuyển cư, gia nhập về phía Bắc do những biến động của xã hội Champa. Dòng chuyển cư này số lượng không nhiều nhưng liên tục trong lịch sử. Họ là quan lại, hoàng tộc Champa khi đấu tranh nội bộ thất thế chạy ra phía Bắc nương nhờ chính quyền ở đây và thương nhân tham gia buôn bán, khi xã hội Champa có biến động, họ ở lại nơi buôn bán quen thuộc hội nhập vào xã hội người Việt.
 Đối với dòng chuyển cư thứ nhất, có thể sơ bộ thống kê ra theo sự kiện lịch sử về số người Chăm ngược ra phía Bắc do sự “áp đặt”dưới các triều đại:
 - Cuộc chinh phục Chiêm Thành đầu tiên vào năm 982 do Lê Hoàn thân chinh dẫn quân đánh vào kinh đô Inddrapuurra “bắt sống được quân sĩ của chúng nhiều vô kể, cùng là kỹ nữ trong cung trăm người và một nhà sư người Thiên Trúc, lấy các đồ quý đem về...”[41]. Số người này có lẽ được đưa về kinh đô Hoa Lư.
 - Năm 1044, Lý Thái Tông đánh kinh thành bắt sống hơn 5.000 người đưa về Đại Việt cho ở từ trấn Vinh Khang (Nghệ An) đến Đăng Châu (Yên Bái - Lào Cai) sinh sống; cho các tù binh được nhận người cùng bộ tộc, đặt hương ấp phỏng tên gọi cũ của Chiêm Thành. Lý Thái Tông khi vào Phật Thệ (Vijaya) bắt vợ cả, vợ lẽ... và các cung nữ giỏi hát múa khúc điệu Tây Thiên đưa về Thăng Long, năm 1046 “dựng cung riêng cho các cung nữ Chiêm Thành” 2. Đây là lần di dân đầu tiên ồ ạt , số lượng người lớn, gồm nhiều thành phần, được phân ra cư trú khắp nơi từ phía nam lên phía bắc và tập trung chủ yếu tại kinh đô Thăng Long. Một số thành phần gia nhập vào đời sống cung đình của Đại Việt.
Năm 1069, Lý Thánh Tông cầm quân đi đánh Champa " Tháng 2, vua thân đi đánh Chiêm Thành bắt vua nước ấy là Chế Củ cùng dân chúng hơn 5 vạn người"3. Đặc biệt hơn về tinh thần, trong số những tù binh bắt được đưa về Thăng Long có một nhà sư Trung Quốc. Là người hâm mộ đạo Phật, tiếp thu những giáo lý Phật giáo; Lý Thánh Tông đã đưa vị sư này về chùa Khai Quốc, phong làm Quốc sư khai sinh ra phái Thảo đường, một thiền phái của phật giáo vương triều và tự mình trở thành thế hệ đầu của thiền phái này.
 - Năm 1252, Trần Thái Tông đi đánh Chiêm Thành “bắt được vợ của chúa Chiêm Thành là Bố Da La và nhiều thần thiếp nhân dân của y rồi về” [42]. Năm 1312, “bắt được chúa Chiêm Thành là Chế Chí đem về” [43]. Năm 1313 Chế Chí đến hành cung Gia Lâm chết đem hỏa táng” [44]
 - Năm 1446, Lê Nhân Tông đánh Chiêm Thành " bắt được chúa nó là Bí Cai  và các phi tần bộ thuộc, ngựa voi vũ khí cùng các hàng tướng rồi đem quân về" “Giữ chúa Chiêm Thành là Bí Cai và ba người phi tần ở kinh sư” 4
 - Năm 1471, Lê Thánh Tông đánh kinh đô Vijaya " bắt sống hơn 3 vạn người...bắt sống Trà Toàn rồi đem quân về" 5 và sáp nhập vùng đất này vào lãnh thổ chung lập nên đơn vị hành chính Thừa tuyên Quảng Nam. Vương quốc cổ của người Chăm về cơ bản đã sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam  từ vùng đất Quảng Bình đến đèo Cù Mông ngày nay và dòng người Chăm ngược lên phía Bắc cơ bản là chấm dứt.
Những thống kê sơ bộ ghi chép trong lịch sử cho thấy dưới 3 triều đại Lý - Trần - Lê có những cuộc di dân “cưỡng bức” ra Bắc khá lớn, do nhà nước tổ chức. Cuộc di dân lớn đầu tiên diễn ra dưới thời Lý, có lẽ thời đó, do nhu cầu nguồn nhân lực phát triển kinh tế, xây dựng đất nước, nhà Lý đã di dân hàng loạt ra và phân bố trên nhiều vùng khác nhau, từ Nghệ An - Yên Bái - Lào Cai. Tôn trọng phong tục, truyền thống văn hóa của người Chăm nhà Lý còn cho tù binh được nhận họ tộc, đặt hương ấp phỏng theo tên cũ của Chiêm Thành để người dân nhớ về bản quán. Sau này, số lượng người Chăm đưa ra ít dần, cơ bản là tập trung ở vùng kinh đô. Tại Thăng Long, vua còn cho dựng cung riêng cho các cung nữ Chiêm Thành. Những người Chăm được lựa chọn đưa ra có thể thấy đầu tiên là Hoàng tộc Chăm, vua, vợ cả, vợ lẽ, cung nữ. Tiếp đến là những tướng lĩnh, binh sĩ, những thợ thủ công lành nghề và cả những nhà sư... Họ được coi như thần dân của nhà nước phong kiến Đại Việt, có nghĩa vụ công dân dưới sự quản lý của chính quyền các cấp. Số người Chăm cư trú trên vùng đất phía bắc đông đến nỗi nhà vua phải " Sai kiểm xét hộ khẩu của người Chiêm đã quy thuận"[45]
 Cuộc di dân lớn thứ hai do nhà Lê thực hiện vào thế kỷ XV sau khi tiến quân vào Vijaya kinh đô của người Chăm. Những người dân đủ mọi thành phần hoàng tộc, quan lại, thợ thủ công, người dân được nhà Lê đưa ra phía Bắc, chủ yếu tập trung trên địa bàn Thanh Hóa, đất khởi nghiệp, nơi đây được xây dựng làm kinh đô thứ hai của vương triều - Tây Đô. Người Chăm vào thời Lê  khá đông cư trú  ở nhiều nơi và có ảnh hưởng đến vùng đất Tây Đô. Sử cũ ghi lại năm 1509: “Vua xua đuổi người tông thất và công thần về xứ Thanh Hoa và giết các nữ sử nội thần người Chiêm” 2 dẫn đến sự kiện “Văn Lang đem bọn Chế Mạn là nô lệ người Chiêm cùng Vũ Bá, Vũ Tiếp và người ba phủ nổi nghĩa quân ở thành Tây Đô, đem quân giữ cửa biển Thần Phù” 3. Hay năm 1516 Trần Cảo "...cùng với con là Cung và bè đảng là bọn Phan Ất ( tức người Chiêm, tên là Đồng Lợi, nguyên là gia nô của Trịnh Duy Đại), Đình Ngạn, Đình Nghệ, Công Uẩn, Đình Bảo, Đoàn Bố dấy quân ở chùa Quỳnh Lâm, chiếm cứ các nơi ở hai huyện Thủy Đường và Đông Triều, trấn Hải Dương" 4. Những sự kiện trên với sự tham gia của người Chăm đã cho thấy người Chăm có mặt trong Hoàng cung và mọi miền trong đó tập trung chủ yếu ở Thanh Hóa đất khởi nghiệp nhà Lê.
Đây là những cuộc di dân cơ học với số lượng lớn, nhiều thành phần được phân ra cư trú nhiều nơi. Trong những thành phần chuyển cư " cưỡng bức" đó có những thành phần ưu tú, tạo nên sóng chuyển một phần tinh túy diện mạo văn hóa Champa trong lịch sử tham gia, hội nhập vào văn hóa Việt.
 Những cuộc di dân này thường gắn liền với việc hội nhập vùng đất lãnh thổ. Thời Lý sáp nhập 3 châu: Đại Linh, Minh Linh, Bố Chính. Thời Trần sáp nhập châu Ô, châu Lý. Thời Lê sáp nhập châu Vijaya. Riêng thời Hồ (1398-1407) với chính sách mới, nhà Hồ sáp nhập hai châu Chiêm Động và Cổ Luỹ, nhưng không thực hiện chính sách di dân ra phía Bắc mà ngược lại, khuyến khích đưa người phía Bắc váo cư trú phía Nam " đem những người không có ruộng mà có của dời đến Thăng Hoa biên chế thành quân ngũ. Quan lại ở các lộ, phủ, châu, huyện chia đất cho họ ở... mộ dân nộp châu để cấp cho dân mới dời đến ở Thăng Hoa, người nộp được ban tước." [46]
. Dòng chuyển cư thứ hai số lượng không diễn ra rầm rộ những được thực hiện liên tục trong mọi thời đại với tinh thần tự nguyện của người ra đi. Cùng với nhóm người được đưa ra “cưỡng bức” thì trong tiến trình lịch sử, do mối quan hệ lâu đời truyền thống giữa hai tộc người Việt - Chăm, cùng với mối bang giao giữa hai nhà nước, mỗi khi có biến động thì một bộ phận người Chăm lại chạy ra phía Bắc nương thân. Những người ra đi thường là Hoàng tộc thất thế khi tranh giành quyền lực, hay những người buôn bán, thần dân vùng biên khi xã hội có biến động. Sử cũ ghi lại: Năm 986 người Chiêm Thành là Bồ La Át đem hơn trăm người họ xin nội phụ”2. Năm 1039, “Con vua Chiêm Thành là Địa Bà Lạt cùng bọn Lạc Thuẫn, Sạ Đâu, La Kế, A Thát Lạt 5 người sang quy phụ nước ta”3. Năm 1040, “Mùa thu tháng Tám, người giữ trại Bố Chính của nước Chiêm Thành là Bố Linh, Bố Kha, Lan Đà Tinh đem bộ thuộc hơn 100 người sang quy phụ" 4. Năm 1124 "người nước Chiêm Thành là Cụ Ông và 3 người anh em họ đến chầu... Tháng năm, người nước Chiêm Thành là bọn Ba Tư Bồ Đà La 30 người sang quy phụ"[47]. "Tháng Năm năm 1124, người Chiêm Thành là Ba Tư Bồ Đà La 30 người sang quy phụ" 2. Năm 1130, “Tháng Ba, người nước Chiêm Thành là Ung Ma, Ung Câu sang quy phụ” 3. Năm 1152, “người nước Chiêm Thành là Ung Minh Ta Điệp đến cửa khuyết xin mệnh cho làm vua nước ấy. Xuống chiếu cho Thượng cho Lý Mông đem hơn 5.000 người ở phủ Thanh Hoa và châu Nghệ An sang Chiêm Thành lập Ung Minh Ta Điệp làm vua” 4.
      Năm 1154, “vua nước Chiêm Thành  là Chế Bì La Bút dâng con gái vua nhận” 5. Năm 1203 “Vua nước Chiêm Thành Là Bố Trì bị chú là Văn Bố Điền đuổi, nay đem cả vợ con đến ngụ ở cửa biển Cơ La, ý muốn cầu cứu.” 6. Sự kiện này được Việt sử Lược ghi rõ hơn “Chúa Chiêm Thành là Bố Trì bị chú là Bố Do đuổi, đem hơn 200 chiếc thuyền Bị Lan chở vợ, con đến ngụ ở cửa biển Cơ La muốn cầu cứu ta” 7
      Năm 1279 “Chiêm Thành sai Chế Năng, Tra Diệp sang cống. Bọn Chế năng xin ở lại làm nội thần” 8. Năm 1352 “Chế Mỗ là người Chiêm Thành chạy sang ta, dâng voi trắng, ngựa trắng, mỗi thứ một con... Chế Mỗ ở lại nước ta, không bao lâu rồi chết” 9. Năm 1390, La Ngai tự lập ngôi vua “Con của Bồng Nga là Chế Ma Nô Đà Nan và em là Chế Sơn Nô sợ bị giết bèn chạy sang ta. Phong Ma Nan làm Hiệu chính hầu, Sơn Nô làm Á hầu” 10. Năm 1396, “Trần Tùng đi đánh Chiêm Thành, bắt được tướng nước ấy là Bố Đông đem về, ban cho họ tên là Kim Trung Liệt, chỉ huy quân Hổ Bôn. Khi phòng ngự, thành Đa Bang Trung Liệt (Bố Đông) dâng kế sách đưa quân lên biên giới đón đánh, không cho quân giặc tiến vào nước ta, không để chúng ỷ vào trường binh và thông được đường tiến quân. Nhưng các tướng không nghe theo kế ấy. Bố Đông bị bệnh rồi chết”[48].
Năm 1397 “Tướng Chiêm Thành là Chế Đa Biệt cùng với em là Mộ Hoa Tư Ca Diệp đem cả nhà sang hang; ban tên cho Đa Biệt là Đại Trung, phong làm Kim ngô vệ tướng quân. Ca Diệp làm Cấm vệ đô, đều ban họ Đinh lại cho làm trấn thủ Hóa Châu để chống giữ Chiêm Thành” [49]. Năm 1448 “Người Chiêm Thành là Phan Mỗ dẫn hơn 340 đàn ông, đàn bà sang hàng, xuống chiếu chia cho ở các đạo” [50]. Thời điểm này, người Chăm tự nguyện đi ra phía bắc hầu như không đáng kể, nên các nguồn tư liệu không được ghi chép.
 Thành phần người Chăm tự nguyện chạy ra phía Bắc cơ bản là người Hoàng tộc do tranh giành ngôi vị thất bại, hay những tướng lĩnh và bản thân các sứ thần khi sang ngoại giao  thấy tình hình  biến động cũng chủ động xin ở lại. Một số người được ban chức tước của các triều đình Đại Việt,  được ban họ hay tự nhận họ người Việt là điều kiện để những thế hệ sau dần Việt hóa. Số lượng những người tự nguyện gia nhập không nhiều, họ thường ở kinh đô hoặc trung tâm chính trị kinh tế, văn hóa các vùng và cũng có thể là chia đều cho các đạo. Những cứ liệu nêu trên chắc chỉ là một phần trong lịch sử, bởi trong mối quan hệ gần gũi giữa hai tộc người còn nhiều thành phần người khác nữa như thương nhân, thợ thủ công, nhà sư vv... khi đến Đại Việt làm ăn cũng tự nguyện ở lại. Hay những cuộc di dân cưỡng bức của nhà Lê sau này do không chính thống nên không được sử xưa chú ý ghi lại. Chỉ theo nguồn tài liệu trên, có thể thấy có hàng vạn người dân Chăm có mặt trên lãnh thổ Đại Việt theo xuốt chiều dài lịch sử.
 Vậy những người Chăm xưa kia và hậu duệ họ hiện nay ra sao?.
Cho đến nay có thể nói, phần địa lý phía Bắc từ Quảng Bình trở ra trong thành phần tộc người hiện nay không hề có người Chăm. Họ đã biến mất trong lịch sử đương đại chăng? Để tìm về nguyên nhân, trước hết hãy cùng tìm về những ghi chép trong lịch sử. Sự có mặt của người Chăm cùng với sự xuất hiện phong tục tập quán của một tộc người trong lòng cộng đồng người Việt. Cuộc sống xen cư đã tạo điều kiện cho hai tộc người có mối quan hệ với nhau mà trong đó, người Việt, văn hóa Việt làm chủ thể. Mặc dù thân phận từ tộc người bên ngoài đưa lại hay là tù binh các cuộc chiến, nhưng người Chăm vẫn có được sự bình đẳng với người Việt. Sử cũ ghi lại nhiều người Chăm tham gia vào nhiều lĩnh vực quan trọng của chính quyền.
Trên lĩnh vực tôn giáo, cuộc chinh phạt đầu tiên của Lê Đại Hành (năm 982) vào kinh đô Inđrapurra (Quảng Nam) trong số người bị bắt đưa về kinh đô Hoa Lư có nhà sư Thiên Trúc (Ấn Độ), nhà sư này có tiếp tục hành nghề hay không, điều này sử liệu không ghi chép. Nhưng sự có mặt của chùa Nhất Trụ tại Hoa Lư hay các cuộc khai quật khảo cổ học tìm thấy hàng trăm cột đá khắc kinh Phật ở Hoa Lư đã cho thấy các triều đại Đinh - Lê có quan tâm đến Phật giáo. Số lượng các cột đá khắc kinh Phật nhiều, tập trung vùng kinh đô; có thể kết luận trong lịch sử kinh đô Hoa Lư là một trung tâm Phật giáo lớn. Nhà sư Thiên Trúc được đưa từ Champa ra có mối liên hệ gì với Phật giáo ở đây, vấn đề này cho đến nay vẫn bỏ ngỏ nhưng nội dung các kinh phật khắc trên cột đá mang đậm yếu tố Mật Tông, một yếu tố đậm trong Phật giáo Champa với trung tâm là Đồng Dương cùng thời đại có mối quan hệ thế nào vẫn là vấn đề bí ẩn.
Năm 1069, khi đánh vào kinh đô Vijaya (Bình Định) những tù binh bị bắt ra được phân chia cho bá quan, chùa chiền làm nô bộc. Trong số những người bị bắt, đưa ra Thăng Long có nhà sư Thảo Đường. Sau khi phát hiện ra tông tích của sư, vua Lý đã trọng dụng, phong ông là Quốc sư, mời trụ trì chùa Khai Quốc (Thăng Long) và lập ra thiền phái Thảo Đường mà Lý Thánh Tông trở thành thế hệ thứ nhất. Thiền phái Thảo Đường truyền được 5 thế hệ trong hoàng tộc, quan lại nhà Lý [51]. Bên cạnh những vị sư đã biết, Phật giáo Việt Nam còn ghi nhận sự có mặt các vị Thiền sư trong các dòng thiền vào thời kỳ nhà Lý như: Thiền sư Ma Ha (dòng Tỳ ni đa lưu chi). Thiền sư tên cũ là Ma Ha Ma Da (Mahamaya) tổ tiên người Chiêm Thành, tự lấy họ Dương. Cha là Bối Da, am hiểu sách lá Bối, giữ chức quan bối trưởng, dưới triều tiền Lê. Sư là người hiểu biết sâu rộng, giỏi cả chữ Hán và chữ Phạn” hay Thiền Sư Ngộ Ấn (1019-1088) dòng Vô Ngôn Thông vốn được một nhà sư Chiêm Thành nuôi dạy thành đạo. “Sư họ Đàm tên Khí quê ở Tư Lý làng Kim Bài. Trong làng có một nhà Sư họ Đàm người Chiêm Thành lựợm đem về nuôi và đặt tên Khí. Năm sư lên 10, nhà sư Chiêm Thành cho sư theo học nho, học vấn ngày càng tiến tới. Sư thông cả hai chữ Hán và Phạn”[52]
Thời Trần các nhà sư Chiêm Thành mỗi khi có điều kiện lại có mặt ở phía bắc để truyền bá Phật giáo.Năm 1304 " Sư Du Già nước Chiêm thành sang ta, chỉ ăn sữa bò" 2 . Như vậy, những nhà Sư Chiêm Thành vào thời Lý- Trần đã có mặt khá đông đảo trong Phật giáo Việt Nam buổi đầu phục hưng văn hóa dân tộc. Trong  đời sống tinh thần của cộng đồng người Việt, họ đã có những đóng góp nhất định cho sự hưng thịnh của Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ xây dựng bản sắc văn hóa Việt.
Trong lĩnh vực quân sự, những người Chăm khi được đưa ra Bắc có người là tướng lĩnh, quan sĩ phục vụ trong quân đội Champa, những người có tài năng quân sự đều được triều đình phong kiến Việt Nam trọng dụng và có đóng góp nhất định trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược.
Vào cuối thời Lý, khi khủng hoảng chính trị nổ ra, nhiều tập đoàn phong kiến trỗi dậy tranh giành quyền lực, trong đó nổi lên Hoài Đạo Hiếu Vũ Vương Nguyễn Nộn, dưới trướng của ông có vị tướng người Chăm là Phan Ma Lôi. Sau khi Nguyễn Nộn ốm chết, “Phan Ma Lôi ngầm phóng ngựa chạy trốn, không biết là đi đâu. Ma Lôi người Chiêm Thành, buôn bán ở Ai Lao, được Nộn nhận làm nô, có tài chủ động đánh thắng và dụng binh như thần” [53].
Cuối thời Trần, các con của Chế Bồng Nga do sự tranh chấp quyền lực chạy sang quy phụ nước ta được nhà Trần phong tước: Hiệu Chính Hầu và Á Hầu làm quan trong triều đình như sử sách đã ghi lại.
 Thời Hồ, tướng Bố Đông người Chiêm khi quy hàng còn được ban tên Việt là Kim Trung Liệt, chỉ huy quân Hổ Bôn của triều đình tham gia cùng tướng lĩnh nhà Hồ kháng chiến chống quân xâm lược Minh. Hay năm 1397, Chế Đa Biệt cùng với em là Mộ Hoa Tư Ca Diệp đem cả nhà sang hang Trần Thuận Tông ban tên cho Đa Biệt là Đại Trung, phong làm Kim ngô vệ tướng quân. Ca Diệp làm Cấm vệ đô, đều ban họ Đinh và cho làm trấn thủ Hóa Châu.
 Như vậy, những người Chăm tham gia quân đội các triều đại đều được ban họ của người Việt, nhận chức tước Việt được coi như một thành phần trong cộng đồng chung dân tộc. Khi người Chăm được đưa ra phía Bắc, có thể nói đa phần họ là những tầng lớp ưu tú của người Chăm, họ mang những thành tựu, bề dày truyền thống hơn nghìn năm xây dựng và phát triển của văn hóa dân tộc Chăm ra hội nhập vào văn hóa Việt. Những yếu tố lạ, nổi trội của văn hóa Chăm đã du nhập vào cuộc sống văn hóa cung đình cùng văn hóa các vùng mà họ cư trú, góp phần, xây dựng làm phong phú thêm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
 Sử cũ ghi lại: tại Thăng Long, vua Lý "Chế xe Thái Bình lấy vàng trang sức “bồng la nga” (tức cái bành voi của Chiêm Thành) đóng voi để kéo" 2;  “Dựng cung riêng cho các cung nữ Chiêm Thành” 3, ; năm 1060, lại “Tháng Tám, phiên dịch nhạc khúc và điệu đánh trống của Chiêm Thành sai nhạc công ca hát”; năm 1203, “Sai nhạc công chế khúc nhạc gọi là nhạc Chiêm Thành, tiếng trong trẻo ai oán buồn rầu, người nghe phải chảy nước mắt” 4  
Một phần những người Chăm bị bắt làm nô, phần chia cho đi ở các địa phương và trong quá trình sinh sống, họ đã tạo nên nét riêng trong văn hóa các địa phương mang dấu ấn của văn hóa tộc người. Dựa vào cuốn sách cổ “Bản xã thần ký” truy tìm trong lịch sử cho thấy nhóm người Chăm được Lý Thánh Tông sau khi chinh phạt Champa (1044) đã đưa nhóm người này đến vùng ven Thăng Long cư trú lập ra thôn Đa Da Li (sau được phiên âm là Bà Già). Làng Chăm này
đến thời Trần khá thịnh đạt, tướng Trần Nhật Duật, một quý tộc nhà Trần, thường đến đây ngao du “ Nhật Duật thích chơi với người nước ngoài, thường cưỡi voi đến chơi thôn Bà Già (thôn này hồi Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành, bắt được người Chiêm cho ở đấy, lấy tiếng Chiêm đặt tên là Đa Gia Ly sau gọi sai thành " Bà Già”) có khi ba bốn ngày mới về" [54].
Lược qua những ghi chép trong lịch sử cho thấy, người Chăm ra phía Bắc đã đưa văn hóa Chăm gia nhập tích cực vào tầng lớp cung đình, góp thêm nét tươi mới trong văn hóa dân tộc trong buổi đầu giành được độc lập bên cạnh những truyền thống văn hoá dân tộc được gìn giữ sau nghìn năm đô hộ và phát huy nở rộ vào thời kỳ được lập tự chủ.
Những người Chăm còn lại được đưa đi cư trú tại các vùng ở đâu và hậu duệ họ sau này thế nào, cho đến nay chưa thấy cuốn sử nào ghi chép, nhưng những phát hiện khảo cổ học đã tìm được những “mảnh vụn”dấu vết văn hóa Chăm, có thể là những nơi cư trú của người Chăm xưa, nơi mà họ sinh sống.
Cuộc khai quật khảo cổ học tại Luy Lâu (Bắc Ninh), một trung tâm chính trị, kinh tế văn hóa, trị sở của các triều đại phong kiến phương Bắc từ thế kỷ I đến thế kỷ VII đã tìm thấy những đầu ngói ống có kích thước và trang trí mặt hề giống hệt đầu ngói Champa tìm được tại Trà  Kiệu. Những đầu ngói ống ở Luy Lâu có hình dáng, kích thước và hoa văn trang trí như cặp “song sinh” với các đầu ngói ống Champa có liên quan gì đến người Chăm? Phải chăng trong các cuộc chinh phạt Champa của Đào Hoàng ( thế kỷ V), Lưu Phương ( thế kỷ VII), ngoài chiến lợi phẩm thu được còn có những thợ thủ công Chăm bị bắt đưa ra vùng Luy Lâu và họ là những người mang kỹ thuật, họa tiết trang trí theo truyền thống vật liệu xây dựng Champa chế tác ra những vật liệu xây dựng phục vụ cho việc xây dựng kiến trúc trên vùng đất trị sở này hay những thợ thủ công Chăm hướng dẫn người dân ở đây sản xuất theo kỹ thuật của họ. Dù thế nào đi chăng nữa những người Chăm đó họ đi đâu hay nhưng cuộc hôn nhân Việt - Chăm, những nếp sống ở đây đã đồng hoá họ và trở thành người Việt?
     
Ảnh - bản vẽ đầu ngói ống - thế kỷ V-VI (Luy Lâu, Bắc Ninh)
  
Đầu ngói ống Champa - thế kỷ V-VI
(Trà  Kiệu, Quảng Nam)
Tại kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình), nơi được biết là có số lượng người Chăm ra đông nhất sau cuộc chiến 982 cư trú tại đây. Họ đã tham gia xây dựng các công trình kiến trúc và để lại dấu ấn của nền văn hóa này. Cuộc khai quật khảo cổ học đã tìm thấy nhiều đầu ngói ống trang trí cánh hoa, ngói Mũi lá. Có thể so sánh những hiện vật này với ngói Champa.
Ngói Mũi Lá được sản xuất và sử dụng khá phổ biến trong các công trình kiến trúc Champa, đặc biệt là vùng kinh đô cũ Trà Kiệu ( Simhappura), Đồng Dương ( Indrapura) với đặc trưng mũi ngói nhọn hình tam giác cân, thân hình chữ nhật dài, chuôi ngói uốn vuông với thân móc vào bộ mái.
Ngói Mũi lá - thế kỷ VII-IX ( Trà Kiệu)
Ngói Mũi lá - thế kỷ X (Hoa Lư, Ninh Bình)
 Ngói ở Hoa Lư được sản xuất có hình dạng như ngói Champa mũi nhọn hình tam giác cân, thân chữ nhật, chuôi có móc uốn vuông thước thợ dùng móc vào sườn bộ mái. Kích thước ngói tương tự nhau ( dài 20cm - 28cm, bản rộng 8cm - 12cm, dày 1cm - 1,5cm). Sự khác biệt là hai rìa ngói có gờ, lòng thấp hơn để dễ thoát nước và dày hơn với kỹ thuật nung già cứng.
Với loại hình đầu ngói ống có mặt khá nhiều trên các trung tâm kinh tế của người Chăm như Trà  Kiệu, Đồng Dương (Quảng Nam), Cổ Lũy (Quảng Ngãi), thành Hồ (Phú Yên) có khá nhiều nhiều đề tài trang trí khác nhau, trong đó có đầu ngói trang trí  chấm hình cánh hoa nổi.
 
 Đầu ngói ống Hoa Lư, thế kỷ X
 
Đầu ngói ống Champa, thế kỷ IX-X
Những đầu ngói ống tìm được ở Hoa Lư có hình dáng, kích thước tương tự, đặc biệt là hoa tiết cánh hoa nở đều cân xứng. Nhiều hơn cả là những hiện vật trang trí kiến trúc đất nung với hoạ tiết trang trí tinh xảo mang kỹ thuật và hoa văn truyền thống đất nung Champa. Những vật liệu xây dựng này có khả năng được sử dụng bởi những thợ thủ công người Chăm tham gia sản xuất phục vụ kiến trúc tại kinh đô Hoa Lư. Cùng với sự có mặt của nhà sư, sự có mặt của những cư dân Chăm ở đây có thể nói Hoa Lư là một vùng có mặt người Chăm được đưa ra cư trú đông và sớm. Những người Chăm này có lẽ được đưa về sau cuộc chinh phạt của Lê Hoàn vào kinh đô Champa năm 982. Số lượng này chắc khá đông đảo, gồm nhiều thành phần cho nên sự ảnh hưởng khá rộng trên nhiều lĩnh vực như Phật giáo và xây dựng.
Tại Nghệ An, trong cuộc điều tra khảo cổ học đã phát hiện tượng thần Skanda ( thần chiến tranh) của người Chăm được thờ trong một ngôi đền cổ phường Hồng Sơn, thành phố Vinh. Tượng chế tác liền khối phí dưới là bệ đá hình hộp chữ nhật cao 6,6 cm. Phía trên thể hiện người phụ nữ đứng trên mình chim công. Tượng người cao 17cm, con công phía dưới cao 21cm. Khối tượng nhỏ gọn, đường nét chi tiết sắc sảo. Người dân địa phương cho biết, tượng có từ thế kỷ XI ( nhà Lý) trước thờ ở chùa Đà, xã Vinh Tân, thành phố Vinh sau được đưa về đây. Với kích thước nhỏ gọn, rất có thể đây là tượng được người Chăm mang theo khi ra đây và lập nên nơi thờ phụng [55]. Điều này phù hợp với tư liệu nhà Lý đưa dân Chăm đến ở trấn Vĩnh Kháng. Đây vốn là đất Trấn Vĩnh Khang trong lịch sử.
Kim cương chùy (VaJra) tại Yên Bái & Champa
Tượng thần Skanda
 (Champa)
Tại Yên Bái, người dân ở đây khi đào đất đã tìm được một hiện vật Chăm, họ gọi là chùy Kim Cương ( Vijra). Hiện vật làm bằng chất liệu đồng dài 25cm cấu tạo gồm 3 phần, thân chùy dài 7cm, hai đầu là 5 mấu nhọn uốn cong. Trên thân có trang trí hoa văn [56]. Đây là vật thiêng của Phật giáo xuất hiện khá nhiều trong văn hóa Chăm. Những hiện vật này đều có kích thước nhỏ, dễ được người Chăm mang theo khi di chuyển. Phải chăng đây là dấu tích còn lại của người dân Chăm xa xưa khi có mặt trên vùng đất này lập nghiệp?. Tại Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc hiện đang lưu giữ một phần trang trí vòm cửa tháp Champa tìm được tại đầm Vạc ( thị xã Phúc Yên). Phần còn lại thể hiện hình ảnh vị thần Bhrama, một vị thần quen thuộc trong đời sống tinh thần người Chăm, niên đại vào thế kỷ XII-XIII [57]. Hiện vật đó nói lên có khả năng có một bộ phận người Chăm được đưa đến đây khai phá khẩn hoang. Đây có thể là một bộ phận người Chăm được đưa ra thời Lý. Tại nơi cư trú mới, họ dựng đền thờ và thờ cúng theo phong tục Chăm, sau này, lớp người Chăm hòa đồng thành người Việt… Trong nhiều năm gần đấy nhiều cuộc khai quật khảo cổ học các công trình kiến trúc đại danh lam thời Lý, do triều đình nhà Lý đứng ra xây dựng như Tháp Tường Long ( Hải Phòng), tháp Chương Sơn ( Nam Hà), chùa Đọi Sơn ( Hà Nam), chùa Phật Tích, chùa Dạm ( Bắc Ninh), nhiều hiện vật thời Lý niên đại thế kỷ XI-XII được biết đến hay tại đền thờ Bà Tấm ( Dương Xá, Gia Lâm) nơi đây còn giữ một tượng đầu sư tử thờ Lý. Đầu sư tử này mang nhiều dấu ấn của tượng sư tử Champa.
 Tượng sư Tử Champa - Thế kỷ XII
  Sư tử đền Bà Tấm (Hà Nội) - Thế kỷ XII
Những tác phẩm điêu khắc đá được chạm khắc tinh sảo, nhiều tác phẩm mang nội hàm của văn hóa Champa, các nhà nghiên cứu đã đưa ra ý kiến phải chăng khi xây dựng các công trình kiến trúc này có nghệ nhân người Chăm tham gia. Sự giống nhau khá đồng điệu về chủ đề cùng chất liệu, kỹ thuật khắc tạc trên các di tích được nhận thấy và vấn đề đặt ra phải chăng có các đội điêu khắc đá người Chăm chuyên biệt chuyên đi xây dựng các công trình của nhà nước, dưới hình thức các “nô” như sử sách ghi chép. Hay những thợ người Chăm ấy khi xây dựng xong họ có ở lại địa phương có di tích. Nếu suy luận như vậy, có thể thấy sự có mặt của người Chăm được phân bố trên địa bàn không gian khá rộng, từ Nghệ An đến Yên Bái, hay đồng bằng Bắc Bộ mà tập trung nhiều trên đất Bắc Ninh quê hương dựng nghiệp của vương triều Lý. Tại kinh đô Thăng Long: những cuộc khai quật trước đây tại Quần Ngựa đã tìm được những tượng Garuda đất nung khá đẹp, một hiện vật mang đặc trưng và nội dung văn hóa Champa. Cuộc khai quật tại Hoàng Thành gần đây, trong những hiện vật thu được, đáng chú ý có một viên gạch viết chữ Chăm. Tự dạng và kỹ thuật viết như những sản phẩm thu được tại các kiến trúc tháp Champa.
      
Tượng Garuda - đất nung (Quần Ngựa)
Gạch chữ Chăm Thăng Long
Bên cạnh đó là các tác phẩm đất nung những biểu tượng chim Phượng thời Lý còn nhận thấy hình ảnh ngỗng thần Hamsa hay những đầu tượng rồng bằng đất nung mang hình dáng giống các con thuỷ quái Makara, những hoa văn cúc dây vòng xoắn thời Lý mang hoạ tiết của nghệ thuật Champa [58]. Dù ít ỏi nhưng đây là tài liệu cho thấy sự có mặt của người Chăm ở kinh thành Thăng Long.
Tượng thờ Thiên Yana (Phú Thượng)
 Tượng thờ Thiên Yana Po Nagar
Ngoài thành Thăng Long xưa tìm lại về thôn Bà Già trong lịch sử ( nay là địa bàn xã Phú Thượng, Tây Hồ), trong đình thờ còn bức tượng thờ Thiên Yana hay những tượng Phỗng Chàm. Ngoài những di tích trên, những kiến trúc sau này như các bệ đá thời Trần, Lê vẫn còn phảng phất những họa tiết hoa văn mang đậm dấu ấn phong cách mỹ thuật Champa. Đó là những chim thần Garuda được khắc tạc trên kiến trúc gỗ, trên góc các bệ đá. Trên vùng núi xa xôi phía Bắc, các cuộc khai quật khảo cổ học tại chùa Nậm Dầu ( Hà Giang) có niên đại vào thế kỷ XIII-XIV trong những hiện vật trang trí kiến trúc đất nung tìm được có những hiện vật được chế tác tương tự như những mặt Kala đất nung thuộc văn hoá Champa. Phải chăng trên vùng núi này cũng có mặt những cư dân Chăm được đưa lên đây sinh sống?
Mặt Hổ Phù (chùa Nậm Dầu - Hà Giang)
Mặt KaLa (Champa)
Những biểu tượng trong văn hoá Champa còn được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm điêu khắc thời Trần như trên các bệ đá hoa sen chùa Thầy, chùa Bối Khê ( Hà Tây cũ), chùa Hoa Long ( Thanh Hóa)... Mà sau này khi nghiên cứu, có nhà khảo cổ đã viết “những tượng Garuda ào ạt bay vào trang trí những bệ đá thời Trần” [59].
Garuda trang trí góc bệ thờ chùa Nam Sơn (Thanh Hoá)
Cuộc di dân rầm rộ cuối cùng vào cuối thế kỷ XV, khi sáp nhập vùng đất Vijaya, nhà Lê đưa những người Chăm một phần về Thăng Long và chủ yếu đưa về vùng đất Thanh Hoá. Tại Thanh Hoá những nhóm người Chăm được phân bố sống xen các tộc người khác ( Việt - Mường), dấu ấn của họ đã để lại trên các tác phẩm điêu khắc ở đây. Những biểu tượng trong văn hoá Champa gia nhập vào các cơ sở tôn giáo tín ngưỡng như các chùa, đền tín ngưỡng trong vùng cùng những tín ngưỡng, nếp sống sinh hoạt khác tạo nên bản sắc văn hoá vùng rõ nét.
Giếng nước hình vuông Chăm
 tháp Khương Mỹ (Quảng Nam)
Giếng nước hình vuông Chăm
 (Tuy Hòa - Phú Yên)
Trong lĩnh vực đời sống, các cuộc khảo sát cũng thấy nhiều công trình dân sinh cũng mang dấu ấn người Chăm, như các giếng nước có khẩu giếng hình vuông có mặt tại nhiều nơi từ Hà Tĩnh, Thanh Hóa đến ngoại thành Hà Nội ( Hà Tây cũ) như tại Song Phượng ( Đan Phượng, Hà Nội), Yên Sở, Đắc Sở ( Hoài Đức, Hà Nội), Làng Viềng ( Bắc Ninh)... Đây là những giếng nước được đào xây theo kỹ thuật truyền thống giếng vuông Champa có mặt trên khắp dải đất miền Trung trên địa bàn cư trú của người Chăm.
Sự có mặt của các giếng trên những vùng đất được đào xây theo kỹ thuật Champa phải chăng đây là địa bàn trước kia có người Chăm sinh sống. Theo tài liệu điều tra dân tộc học, nhiều vùng ở ngoại thành Hà Nội ngày nay được truyền lại là những vùng cư trú của người Chăm. Các triều đại Lý - Trần - Lê khi đưa người Chăm ra Bắc đã chọn các vùng đất hoang vu trũng thấp, các đồi gò thành lập các sở khai phá khẩn hoang lập làng.
Giếng vuông ( Làng Diềm, Bắc Ninh)
Giếng vuông  ( Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh)
Các địa danh như Yên Sở gồm: sở Thượng, sở Hạ ( Thanh Trì, Hà Nội), Yên Sở ( Hoài Đức, Hà Nội), sở Hoa Lâm ( Long Biên, Hà Nội), Phú Thượng
( Từ Liêm, Hà Nội) vốn cũ là các sở do người Chăm khai phá dựng nên. Tài liệu địa chí một số làng khẳng định, nhiều làng được hình thành nhờ công sức khai phá của người Chăm. Cuốn sách chép tay “ Lư sử điển yếu điển lệ”của làng Tả Thanh Oai tương truyền do Ngô Thì Nhậm soạn năm 1794 cho biết làng Thượng Phúc bên cạnh được hình thành vào giữa thế kỷ XV, do một bộ phận người Chăm bị đưa về đây khai khẩn vùng đất trũng. Nhiều làng cho đến nay như làng Khương Hạ ( Thanh Xuân, Hà Nội) trước đây có xóm cư dân gọi là xóm Chàm. Các nguồn tài liệu cho biết, đây là nơi tập trung người Chăm từ thời chinh phạt của Lê Thánh Tông ( 1471). Chiếc cổng xóm xưa kia còn ghi chữ “ Xóm Đức Long Chàm”. Làng Cổ Sở ( nay là các xã Yên Sở, Đắc Sở, huyện Hoài Đức) cũng là nơi truyền lại là sở, làng cũ của người Chăm. Xưa kia làng có 73 giếng nước được xây dựng theo kỹ thuật khai thác nước ngầm Champa.
 Ngay tại ven hồ Tây theo ghi chép cho biết xưa kia có ngôi chùa Bà Đanh thờ các tượng thần của người Chăm “ được xây dựng từ đời Hống Đức nhà Lê để cho dòng dõi Lâm Ấp ở ( Tống gọi là Chiêm Thành, tục ta gọi là Xiêm?). Đời Hậu Lê đã phá bỏ” [60]. Theo sách Tây Hồ chí, Chùa Bà Đanh được xây dựng từ đời Lê Thánh Tông. Lê Thánh Tông đã cho xây dựng một thiền viện ( vừa là chùa, vừa là trung tâm nghiên cứu) ở gò Phượng Chủy bên bờ Nam hồ Tây để cho người Chăm hành đạo gọi là thiền viện Châu Lâm. Chùa được xây dựng ở vị trí gần trường Chu Văn An ngày nay, nhân dân trong vùng quen gọi là chùa Bà Đanh vì gắn liền với tên của vị sư có mặt ngay từ buổi đầu xây dựng và xây cất chùa. Vì chùa xây dựng theo quy mô kiến trúc và văn hóa, tín ngưỡng của người Chăm, phục vụ nhu cầu hành đạo của người Chăm nên từ khi xây dựng xong, chùa chỉ có người Chăm lui tới lễ bái. Khi những người Chăm di chuyển đến nhiều khu vực khác sinh sống và không lui tới chùa lễ bái nữa thì chùa trở nên hoang phế. Do đó, dân gian mới có câu ví von: “ Vắng như chùa Bà Đanh”. Trong chùa hiện còn lưu tấm bia ghi tên Bà Đanh và vị sư Tổ có công trụ trì chùa.
 Theo thần tích chùa Thiên Niên thuộc làng Trích Sài, khu vực Bưởi ven Hồ Tây kể lại về sự tích " bà chúa dệt lĩnh”. Thời Lê Thánh Tông vua đi đánh Chiêm Thành thắng trận, được vua Chiêm hiến con gái đẹp, trong đó có một cô, về sau có tên Việt là Phan Thị Ngọc Đô. Vua rất yêu mến Ngọc Đô muốn giữ cô trong cung, nhưng triều đình tâu là không nên, vì Ngọc Đô là tỳ thiếp cũ của vua Chiêm. Vua ban cho Ngọc Đô trở về làng Trích Sài, ở đấy cảnh trí đẹp, lại có khoảng rộng hơn 76 mẫu thuộc các xã Cáo Đỉnh, Phú Gia được triều đình cắt cho làm đất hoa lợi, gọi là Thiên Niên trang. Xưa từ Chiêm Thành ra Bắc, Ngọc Đô có mang theo 24 thị tỳ. Ngọc Đô nhập tịch dân Trích Sài và qua tay thị tỳ đem nghề dệt lĩnh Chiêm Thành truyền cho nhân dân trong vùng... Nhân dân Trích Sài nhớ ơn bà, lập miếu thờ bà chúa dệt lĩnh... Chùa Thiên Niên trải thời gian binh lửa bị đổ nát. Thời Mạc có quan Thái bảo Đà Quốc công Mạc Ngọc Liễn đã đứng ra tu sửa. Cúng 5 mẫu ruộng. Đến năm Vĩnh Thịnh thứ 5 ( 1709) lại tu sửa lớn lập bia... Nay chùa còn bài vị của bà chúa dệt lĩnh...” [61]
 Đặc biệt là Bà Già ( Phú Thượng, Từ Liêm) được lịch sử ghi chép có mặt từ thời Trần thì ngày nay bên cạnh thờ cúng những di vật có nguồn gốc văn hóa Champa còn giữ lại nhiều tâp quán như kiêng ăn thịt bò - một phong tục kiêng cữ của người Chăm theo theo Ba La Môn giáo. Người dân ở đây xây miếu thờ “thần bò”, không ăn thịt bò, không cúng giỗ, lễ bằng thịt bò. Từ đó, người làng Võng La nghe theo lời phát thệ, trong làng không có bóng dáng một con bò nào, không nuôi bò, không ăn thịt bò hay nấu món thịt bò để cúng giỗ chạp và cũng tránh nhắc đến từ “ bò”vì sợ phạm húy. Phong tục này hiện vẫn còn được giữ gìn trong một cố cộng đồng người Chăm ở Ninh - Bình Thuận [62].
Nhiều ý kiến còn cho rằng, những công trình kiến trúc xây bằng vật liệu đá ong hiện diện tại các vùng Ba Vì, Quốc Oai, Sơn Tây, Hoài Đức mà nổi bật là làng Đường Lâm ( Sơn Tây) được kế thừa từ nguồn gốc khai thác đá ong tự nhiên của người Chăm phục vụ cho xây dựng [63]. Hay những vùng trồng dừa nhiều ở nước ta như Cát Quế ( Hoài Đức, Hà Nội) hay Hoằng Hóa ( Thanh Hóa) là những nơi cư trú của người Chăm. Khi bị đưa ra Bắc sinh sống họ đã mang theo những quả dừa để trồng ở nơi cư trú mới. Những cây dừa để nhắc nhở họ không quên nguồn gốc mình ra đi từ thị tộc Dừa. Nhiều dấu ấn văn hoá phi vật thể hiện còn được gìn giữ đến ngày nay trên những vùng đất người Chăm cư trú trong lịch sử. Dọc dòng sông Mã ( Thanh Hoá) ngày nay vẫn gìn giữ những điệu hò đò Dọc mênh mang sông nước ra biển cả phải chăng có nguồn gốc từ văn hoá Chăm theo người Chăm ra đây sinh sống đến nay vẫn được bảo lưu?
 Những thống kê trên chưa đầy đủ nhưng đã cho thấy người Chăm được đưa ra phía Bắc có mặt ở nhiều nơi. Từ chốn xa xôi miền biển, miền núi đến chốn kinh kỳ, nghệ thuật của người Chăm có mặt trong các công trình kiến trúc cung đình đến các công trình tôn giáo, các công trình dân sinh. Dấu ấn ở khắp nơi, nhưng chủ nhân hầu như biến mất. Chưa ai tìm thấy người Chăm trên vùng đất xứ Bắc xưa. Vậy họ đi đâu hay hậu duệ của họ là ai. Thật khó thể trả lời, những ghi chép sử liệu và những tài liệu dân tộc học manh nha phần nào giải thích hiện tượng đó. Việc người Chăm dời địa bàn cư trú, canh tác quen thuộc lấy biển và núi làm tư liệu sản xuất chính nay đến vùng cư trú mới lấy địa bàn đồng bằng làm nơi sinh sống, họ đã thích nghi như thế nào. Có thể chia người Chăm ra xứ Bắc thành hai nhóm:
- Nhóm tầng lớp trên: quan lại, thầy Tăng, thương nhân, thợ thủ công, cung nữ, họ được tiếp nhận, tham gia các hoạt động chính tại các trung tâm văn hóa kinh tế của người Việt. Nhiều người họ được triều đình ban cho tên Việt, họ Việt, họ tham gia quân đội, thợ thủ công nhà nước, xây dựng các kiến trúc do triều đình đứng ra hưng công với thân phận “nô”, hay thành những tầng lớp tôn giáo trên dần dần họ hòa nhập và trở thành Việt.
 - Nhóm bình dân gồm binh lính, thường dân họ được đưa đi các vùng khai phá tự nhiên dựng nên các Sở, làng Chăm sống xen cư cùng người Việt. Trong môi trường rộng lớn, thấm đẫm văn hóa Việt, cộng đồng người Chăm quá ít ỏi, mặc dù mang truyền thống văn hóa nghìn năm nhưng để thích nghi, người Chăm từng bước hòa nhập vào môi trường văn hóa của cộng đồng người Việt một cách hòa bình, tự nguyện. Giai đoạn đầu những phong tục, tập quán, văn hóa Chăm còn bảo lưu. Những năm tiếp theo, họ tiếp thu chuyển biến dần theo lối sống Việt cho phù hợp với điều kiện xã hội và hoạt động kinh tế. Đặc biệt hơn, trong quá trình sinh sống lâu dài đó, sự hòa huyết giữa người Chăm và Việt qua việc lấy vợ lấy chồng, đã hội nhập hai tộc người này làm một. Họ đã dần chính thức trở thành người Việt trong những thế hệ sau, có chăng chỉ còn lại một số phong tục , tín ngưỡng của người Chăm xưa còn bảo lưu lại. Khảo sát tại thôn Bà Già xưa cho biết, nhiều người Chăm sinh sống tại đây họ đã đổi họ Chăm thành họ Việt như: họ Ông đổi thành họ Công, họ Bố đổi thành họ Hy. Bên cạnh những đổi thay đó nhiều dòng họ người Chăm dù sinh sống trên đất Bắc đã lâu truyền đời qua nhiều thế hệ họ vẫn giữ được các họ Phạm, Bố, Ông... cho đến ngày nay. Hiện tượng này cũng diễn ra trên nhiều vùng khác, có chăng chỉ để lại dấu vết như những rặng dừa tươi tốt xanh ngắt tỏa bóng một vùng đất và những giọng nói mang âm tiết dài hơi nặng, kéo dài âm đuôi, hay mất dấu huyền, dấu hỏi khi nói như dân các vùng Cát Quế ( Hoài Đức), Ba Vì ( Hà Nội). Hoặc những làn điệu dân ca mượt mà của hát Quan họ hay giọng ru Hời xa xôi mà nhiều người cho rằng có nguồn gốc âm tiết hát ru của người Chăm?
Như vậy, người Chăm trong quá trình chuyển cư ra Bắc, một phần người Chăm đã hội nhập và dần từng bước Việt hóa và trở thành người Việt một cách tự nhiên theo năm tháng. Cho đến nay, nếu tính những người Chăm có mặt trên đất Bắc đầu tiên có khả năng là tù binh thế kỷ V-VII để dấu ấn tại Luy Lâu và những người Chăm có mặt cuối cùng vào thế kỷ XV sau cuộc sáp nhập của Lê Thánh Tông tạo nên Quảng Nam thừa tuyên thì người Chăm ít nhất có trên 500 hội nhập và nhiều nhất đến trên 1.000 năm, những người Chăm đó Việt hóa là điều tất nhiên. Dư âm để lại chỉ là những dấu ấn một thời xa lắm, còn chủ nhân cho đến nay không còn nhận ra hoặc chỉ còn trong ký ức. Sau thế kỷ XV, đặc biệt sau năm 1600 do điều kiện lịch sử với sự ngăn cách và quyền quản lý của hai xứ Đàng Ngoài và Đàng Trong thì con đường hội nhập người Chăm ra xứ Bắc hầu như chấm dứt.
3. Người Chăm ở lại trong quá trình hội nhập dân tộc.
Nếu chúng ta chấp nhận con số người Chăm cao nhất trong lịch sử đã tính toán có khoảng trên dưới 1 triệu người thì số lượng người Chăm đi ra Bắc không nhiều, con số chỉ khoảng từ 1 đến 3 vạn mà thôi, còn số lượng người Chăm ở lại miền đất của họ là chủ yếu. Họ là ai, khi ngày nay trên dải đất Trung Bộ, dân số trên 20 triệu người mà cộng đồng người Chăm chỉ còn khoảng chưa đến 20 vạn người với tỷ lệ 1% dân số, sinh sống chủ yếu tập trung trên hai địa bàn tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận cùng những cộng đồng nhỏ sống xen cư với cộng đồng người Việt hiện nay. Để xem xét hiện tượng này, chúng ta hãy thử tìm về quá trình hội nhập lãnh thổ của dân tộc Chăm.
Thế kỷ X, sau gần 1.000 năm chịu sự thống trị, đồng hóa của các triều đại phong kiến Trung Hoa, người Việt giành được độc lập “ nối lại nghiệp xưa họ Hùng” [64]. Kế thừa truyền thống văn hóa dân tộc cội nguồn từ văn hóa Đông Sơn, người Việt đã xây dựng một quốc gia độc lập, tự chủ ngày càng vững mạnh. Trước một đế chế phong kiến phương Bắc hùng mạnh, khát khao bành trướng chiếm đất, người Việt luôn tìm cách mở cõi xuống phương Nam, hội nhập lãnh thổ để tăng cường tiềm lực bảo vệ nền độc lập. Xu hướng thống nhất lãnh thổ là tất yếu và là nguyện vọng của hai tộc người Việt - Chăm. Chính vì thế, bằng các con đường, đấu tranh ngoại giao, hôn nhân hòa bình hay sức mạnh quân sự, hai tộc người dần hội nhập với nhau tạo nên diện mạo lãnh thổ dân tộc thống nhất. Quá trình hội nhập ấy đầy gian nan vất vả, kéo dài gần nghìn năm theo chiều dài lịch sử kể từ những năm đầu phục hưng dân tộc.
Dựa trên mối giao lưu quan hệ truyền thống có từ thời xa xưa, ngay sau khi giành được độc lập tự chủ, người Việt đã chủ động từng bước mở cõi xuống phương Nam. Năm 982, Lê Hoàn đưa quân vào đất người Chăm quản lý. Viên Quản giáp người Việt Lưu Kế Tông đã “ trốn” ở lại tự làm vua Champa. Sự việc bất thành. Lưu Kế Tông bị giết chết. Người Chăm vẫn quản lý vùng đất [65] .
 Sự hội nhập lãnh thổ được diễn ra khá thường xuyên dưới các triều đại nhà nước phong kiến Việt Nam độc lập dẫn đến sự mở rộng địa bàn cư trú sang phần lãnh thổ của người Chăm từng cư trú lâu dài và họ dần trở thành công dân của triều đình Đại Việt. Theo biên niên sử liệu ghi chép có thể thấy 5 lần mở rộng lãnh thổ của các triều đại trong suốt gần một nghìn năm hội nhập (1069-1693)
 a. Sự hội nhập lãnh thổ đầu tiên vào thời Lý (1009-1225)
 Sử liệu ghi chép: Năm 1069, “ Vua thân đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua nước ấy là Chế Củ và dân chúng 5 vạn người... Chế Củ xin dâng 3 châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính để chuộc tội. Vua bằng lòng tha cho Chế Củ về nước...” [66].
Lần đầu tiên sau khi giành được độc lập một phần đất phía Nam được hòa nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Đây là sự sáp nhập tự nguyện, trao đổi có điều kiện. Để củng cố quyền quản lý lãnh thổ, năm 1075, cùng với việc sai Lý Thường Kiệt tổng lĩnh các quân đi đánh Chiêm Thành “... Thường Kiệt bèn họa địa đồ hình thế núi sông của ba châu Địa Lý, Bố Chính, Ma Linh rồi về. Đổi châu Địa Lý làm châu Lâm Bình, châu Ma Linh là châu Minh Linh, chiêu mộ dân chúng đến đấy ở” [67]. Như vậy, chính thức từ năm 1075, một phần đất phía Nam đã sáp nhập vào lãnh thổ dân tộc trên địa đồ và mang tên đơn vị hành chính Việt. Theo các nhà nghiên cứu địa danh cổ, phần đất này, theo địa danh ngày nay, bao gồm tỉnh Quảng Bình và một phần tỉnh Quảng Trị, có thể đến bờ Bắc sông Thạch Hãn ngày nay.
 Sự sáp nhập lãnh thổ này là tự nguyện, có tính trao đổi, mang tính chất giữa hai triều đình quản lý đất nước, còn những người dân Chăm ở đây ra sao? Có hai giả thiết, một bộ phận người Chăm là quan lại, những tầng lớp trên họ sẽ ra đi về miền đất còn lại do người Chăm quản lý, còn đại bộ phận người dân vẫn còn ở lại dưới sự quản lý của chính quyền Đại Việt. Có lẽ sau khi họa địa đồ, hình thế núi sông, nhận thấy cư dân còn thưa thớt, nhà Lý mới dùng chính sách chiêu mộ dân chúng đến đấy ở.
Theo một tài liệu gần đây cho biết, số dân ở Quảng Bình đầu thế kỷ XX có 223.264 người, bình quân có 28 người trên 1 km2, thị xã Đồng Hới không đến 3.000 dân kể cả các vùng ngoại ô [68]. Như vậy, số dân ngày đó cách đây khoảng 1.000 năm hẳn còn thưa thớt hơn nhiều. Số người Chăm ngày ấy ở lại cho đến nay cũng hầu như không thấy. Họ đã hòa nhập vào cộng đồng người Việt và thành người Việt. Đó đây trên địa bàn tỉnh Quảng Bình chỉ còn dấu vết các kiến trúc Champa do người Chăm xưa để lại như: Lũy cũ Hoàn Vương, Lâm Ấp thế lũy, phế tích tháp Trung Quán, Đại Hữu hay những giếng vuông, tượng Chăm mà người Việt còn gìn giữ cho đến ngày nay. Khảo sát các di tích hiện còn trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, trong các làng cổ trên địa bàn hiện vẫn duy trì sử dụng hàng loạt các giếng vuông khai thác nước của người Chăm. Những giếng nước này do người Chăm ở lại tiếp tục sử dụng khi người Việt vào đây cư trú sử dụng kế thừa. Cư dân ở đây hiện nay ở đây không còn ai tự nhận mình là người Chăm, trong khi đó, sử liệu ghi sự di dân vào là thưa thớt mà đa phần dân Chăm vẫn ở lại. Gần nghìn năm qua đi, phải chăng bằng những nẻo đường khác nhau: hoà huyết Việt - Chăm qua hôn nhân, tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhau mà phần nổi trội là văn hoá Việt, sự can thiệp chính sách của các cấp chính quyền người Việt qua các thời đại mà những người Chăm ở đây hoàn toàn trở thành một “ bộ phận địa phương”của tộc người Việt?. Giọng nói và ngôn từ địa phương hiện nay phải chăng có nguồn gốc từ người Chăm nói tiếng Việt?
Phế tích tháp Đại Hữu - Quảng Bình
Phế tích tháp Vân Tập - Quảng Bình
b. Cuộc hội nhập lãnh thổ lần thứ hai vào thời Trần (1226-1398)
Hơn hai thế kỷ sau với “chính sách thân dân, thân láng giềng” cùng mối bang giao khăng khít của hai tộc người Việt - Chăm, trước mối hiểm hoạ xâm lăng từ phương Bắc, hai dân tộc Việt - Chăm đã sát cánh cùng nhau chống sự xâm lược của đế quốc Nguyên - Mông xuống vùng Đông Nam Á. Trong cuộc chiến tranh này để bảo vệ nền độc lập của Champa, nhà Trần đã chi viện một đạo quân gần 2 vạn người cùng 500 chiến thuyền cùng người Chăm chống quân xâm lược [69]. Cuộc kháng chiến thắng lợi “ tháng Ba ( năm 1301) Thượng hoàng ( Trần Nhân Tông) vân du các nơi, sang Chiêm Thành” [70] hứa gả con gái cho vua Chiêm “Tháng Hai ( năm 1305) Chiêm Thành sai Chế Bồ Đài và bộ đảng hơn trăm người dâng biếu vàng bạc, hương quý vật lạ làm lễ vật cầu hôn” 3, “ Mùa hạ, tháng Sáu, gả công chúa Huyền Trân cho chúa Chiêm Thành Chế Mân” 4. Ngoài vàng bạc làm lễ cầu hôn, vua Chiêm còn dâng đất 2 châu Ô, Lý làm đồ sính lễ. Nhà Trần tiếp thu vùng đất mới vào lãnh thổ Đại Việt “ Mùa xuân, tháng giêng
( năm 1307), đổi hai châu Ô, Lý thành Châu Thuận và Châu Hoá. Sai hành khiển Đoàn Nhữ Hài đến vỗ yên dân hai châu đó...  Vua sai Nhữ Hài đến tuyên dụ đức ý ( của nhà vua) chọn người trong bọn họ trao cho quan tước, lại cấp ruộng đất miễn tô thuế 3 năm để vỗ về”5 . Như vậy, một vùng đất khá rộng lớn phía Bắc Champa sáp nhập vào lãnh thổ hành chính dân tộc của Đại Việt tự nguyện, bằng quan hệ hoà bình, cư dân Chăm ở đây trở thành một bộ phận trong cộng đồng cư dân chung của dân tộc Đại Việt. Vùng đất mới này bao gồm địa bàn các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và một phần đất Quảng Nam ngày nay.
Giếng vuông người Chăm
 (Quảng Phú - Quảng Bình)
Giếng vuông người Chăm
 (Quảng Phong - Quảng Bình)
Theo sách Ô châu cận lục, viết vào thế kỷ XVI, Hóa Châu còn 66 xã Nam đèo Hải Vân thuộc huyện Điện Bàn ( Quảng Nam) ngày nay tức là đến bờ Bắc sông Thu Bồn. Vùng đất có may mắn trở thành món quà sinh lễ của vua Champa dâng cưới công chúa Huyền Trân đã gia nhập hoà bình vào cộng đồng lãnh thổ Đại Việt. Những người Chăm sinh sống trên vùng đất có hai sự lựa chọn, hoặc là chuyển dịch về Nam vùng đất người Chăm quản lý hoặc ở lại sinh sống dưới chính quyền quản lý mới của Đại Việt. Sự sáp nhập lãnh thổ lần đầu, chắc gặp nhiều khó khăn " những người ở các thôn La Thủy,Tác Hồng, Đà Bồng không chịu theo" [71] , nhưng bằng nhiều chính sách nhà Trần đã từng bước quản lý vững chắc vùng đất " sai hành khiển Đoàn Nhữ Hài đến vỗ yên dân hai châu đó" 2. Để xây dựng vùng đất ổn định lâu dài, chính quyền Đại Việt khuyến khích dân Việt vào vùng đất mới khẩn hoang sinh sống cùng với người Chăm. Năm 1362, “ mùa hạ, tháng Tư sai Đỗ Tử Bình duyệt bổ quân ở Lâm Bình, Thuận Hoá và đắp thành Hoá Châu”3. Chính sự hội nhập hòa bình này dẫn đến số người Chăm ở lại khá đông, nhà Trần đã chọn người trong bọn họ trao cho quan tước, một bộ phận quan lại người Chăm đã trở thành quan lại của chính quyền Đại Việt đối với người dân ở lại thì cấp ruộng đất, miễn tô thuế 3 năm để vỗ về, ổn định cuộc sống. Họ đã trở thành thần dân nước Việt. Chính điều kiện này đã tạo cho số người Chăm ở lại khá đông. Cùng với sự di dân vào vùng đất mới của người Việt, đầu thế kỷ XV,  phủ Thuận Hoá đã có 2 châu 11 huyện gồm 79 xã với 1.470 gia đình gồm 5.663 người cùng ruộng đất là 71 khoảnh 4
Cho đến nay khi khảo sát cư dân vùng đất, bên cạnh những cộng đồng người Việt ở Thừa Thiên - Huế vẫn tồn tại những nhóm người Chăm như làng Vân Thê với khoảng 200 người dân họ vẫn mang phong tục tập quán của người Chăm nhưng đã có yếu tố giao thoa với văn hóa Việt. Bên cạnh đó vẫn có nhiều người Chăm sống chung với người Việt trong các điểm quần cư làng xóm. Điều kiện sống và cách sống của họ không khác người Việt, có chăng họ chỉ mang các họ người Chăm như Chế, Ông, Trà, Bố. Ngược lại ở Thừa Thiên Huế, ở một số địa phương vùng Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang... người dân Việt ở đây hằng năm vẫn giữ tục thờ cúng chủ đất. Họ cúng chủ đất cũ là người Chăm đã đi, để lại đất cho họ khi họ vào vùng đất lạ định cư. Phải chăng những làng không có tục cúng chủ đất cũ chính là người Chăm đã Việt hóa? Họ ở chính nơi mảnh đất của cha ông họ thì sao phải cúng chủ cũ, hay đó là bộ phận cư dân Việt có nguồn gốc từ phía bắc đi vào.
Những người Chăm ở lại họ đã ứng xử như thế nào?
Trước hết, những người Chăm khi cộng cư vào lãnh thổ dân tộc chung đã có truyền thống văn hoá, sinh hoạt kinh tế hàng nghìn năm, kinh nghiệm đó đã góp sức vào xây dựng miền đất ngày càng phát triển. Những người Việt vào mở mang khai phá vùng đất mới, quản lý lãnh thổ có thể có mặt rất sớm trước khi vùng đất hoà nhập vào lãnh thổ chung hoặc hoà nhập vào giai đoạn sau. Bên cạnh hành trang vào sống vùng đất mới họ mang theo kinh nghiệm hoạt động kinh tế, nền văn hoá, tôn giáo của dân tộc mình hàng ngn năm vào tạo dựng vùng đất mới. Cùng sinh sống trên dải đất, sống xen cư nhau, hai dân tộc tiếp thu các yếu tố hoạt động kinh tế, văn hoá tôn giáo của nhau, từ đó chắt lọc ra xây dựng nên bản sắc văn hoá của mình làm phong phú thêm sự đa dạng của nền văn hoá dân tộc. Bên cạnh đó phải kể đến chính sách phù hợp, ổn định của nhà nước quân chủ phong kiến. Khi tiếp thu quản lý vùng đất mới, nhà Trần có những chính sách mềm dẻo với cộng đồng cư dân Chăm ở đây “...chọn người trong bọn họ trao cho quan tước, lại cấp ruộng đất miễn tô thuế 3 năm để vỗ về”[72] yên dân. Sử liệu cho biết, năm 1397, nhà Trần còn phong cho Chế Bà Điệt một viên quan người Chăm làm trấn thủ Hoá Châu, được đổi tên là Đinh Đại Trung, phong chức Kim ngô vệ tướng quân chỉ huy quân dân vùng châu Hoá.
Một vùng đất được sáp nhập vào lãnh thổ chung trong điều kiện hoà bình, hai tộc người có những mối quan hệ gần gũi nhau cùng những chính sách phù hợp đã tạo điều kiện để hai dân tộc, hai nền văn hoá hoà quyện nhau cùng nhau phát triển góp phần vào nền văn hoá chung dân tộc. Bên cạnh văn hóa truyền thống của mình, người Chăm tiếp thu những yếu tố văn hóa mới của người Việt, chung sống với nhau trên dải đất bằng các mối quan hệ giao lưu, hôn nhân hòa huyết lẫn nhau đã tạo nên tầng lớp cư dân mới Việt - Chăm rồi Việt hóa. Người Việt và người Chăm sinh sống hòa đồng ở đây tạo nên một vùng văn hóa riêng.   " Ma chay thì mau chôn cất, chẳng bày vẽ sớm chiều mà thờ cúng cha mẹ; tế lễ thì chuộng đàn chay, chẳng dốc của cải muôn vàn để tỏ lòng kính Phật. Đưa ma thì múa hát trước linh cữu gọi là " tiền vong". Đến như hội đình làng thì sáng mở chiều tan, để dành năm tới; đám múa hát thì canh giờ thúc trống, chỉ vui một đêm." [73]. Cùng với phong tục Việt “ Ngày xuân mở hội bơi chải, phấp phới lụa là, tiết hạ bày tiệc tàng quy tưng bừng hát múa...” 2 thì “Người La Giang nói tiếng Chiêm, gái Thuỷ Bạn mặc áo Chiêm” 3 là nét đặc trưng riêng ở vùng đất mới, rồi hoà nhau “Đàn bà mặc váy Chiêm, đàn ông dùng quạt Bắc” 4 . Theo một số nhà nghiên cứu, người Chăm có truyền thống phương thức sản xuất làm vườn, trồng cây quanh nhà, kinh tế làm vườn trồng cây có củ, rau, cây ăn quả là chủ yếu, phù hợp với địa hình khí hậu địa phương. Khi người Việt vào sinh sống mang theo truyền thống văn minh lúa nước, để phù hợp với vùng đất mới, họ đã học theo truyền thống canh tác của người Chăm. Những tên gọi như hạt Mè ( Hồ ma), hạt Ngò ( Hồ ly), dưa chuột ( Hồ qua)... vốn có nguồn gốc từ cư dân Chăm lưu lại. Trong những công cụ canh tác nông nghiệp trên vùng đất đai nhiều cỏ rậm, khô hạn khó cày, “ Để cày được dễ, người Việt bắt chước những chiếc cày của người Chăm, nó khoẻ hơn; đặc biệt phần lưỡi cày và có thêm bộ phận chỉnh góc. Các bộ phận của loại cày mới theo mẫu cày Chăm lấy cả tên Chăm, trong khi các bộ phận có thêm chức năng lại mang tên Việt" [74]. “ Cày buộc tai Trâu, lưỡi cày ở giữa, bừa tựa tấm phản, người đứng ở trên ...” [75]. Đó là truyền thống kỹ thuật của người Chăm được người Việt kế thừa, cải tiến sử dụng trong sản xuất. Một số người còn cho rằng: “ Kỹ thuật đóng thuyền nói chung do người Việt mượn của người Chăm” [76]. Trong phong tục, ngôn ngữ ảnh hưởng của người Chăm khá phổ biến.  Bên cạnh " Ngôn ngữ giống vùng châu Hoan" 4  thì sự hồn dung lối sống " Nói tiếng châu Hóa mặc áo Chiêm" 5 được người Việt vẫn duy trì trong đời sống văn hoá của mình. Như vậy trên vùng đất hội nhập, người Chăm ở lại nhiều, ổn định, họ vẫn giữ được những nét truyền thống văn hóa, qua thời gian hội nhập với văn hóa Việt, hòa với nhau tạo nên nét văn hóa vùng khá đặc trưng mà văn hóa Huế sau này còn lưu lại. Đặc biệt hơn là việc tạo ra tiếng nói châu Hóa giống ngôn ngữ vùng châu Hoan như sử cũ ghi lại. Một số nhà nghiên cứu còn cho rằng, hơi Ai, hơi Oán, hơi Xuân trong ca Huế chịu ảnh hưởng của âm nhạc Chăm 6.
Những người Chăm ở lại có lẽ khá đông, những dấu tích văn hoá Champa ở đây còn lại khá dày đặc, nhiều loại hình: thành cổ ( Hoá Châu, Thành Lồi), kiến trúc tháp như Mỹ Khánh, Linh Thái, Liêu Cốc... Hệ thống các phế tích gồm 33 địa điểm như Vân Trạch Hoà, Ưu Điềm, Phước Tích, Lương Hậu vv... cùng các tác phẩm điêu khắc đồ gốm sứ vô cùng phong phú. Đặc biệt ở đây còn gìn giữ được đi tích đền thờ Quốc Vương Chiêm Thành ( Thuỷ Biều, Huế) là nơi thờ cúng các vua Champa thuở trước. Những di tích, di vật này được các chủ nhân người Chăm gìn giữ bảo quản song hành cùng các di tích văn hoá Việt đã hình thành nên một vùng văn hoá đặc sắc mang đậm tính địa phương. Do không có các điều kiện thuận lợi dựng xây và phát triển, các di tích ở đây được giữ dưới dạng các miếu thờ và trở thành địa điểm tín ngưỡng linh thiêng của cả hai tộc người Việt và Chăm sinh sống trên cùng vùng đất.
Như vậy, hơn 3 thế kỷ trường chinh mở cõi, lãnh thổ Đại Việt đã mở rộng tới Bắc đèo Hải Vân hiện nay, những người Chăm ở đây từng bước đồng hóa cùng người Việt, họ trở thành một bộ phận Việt mang hơi thở văn hóa tinh thần Chăm tạo nên văn hóa một vùng đất với giọng Huế, văn hóa Huế đặc trưng tạo đà cho cuộc trường chinh mới của dân tộc khi mở cõi về phương Nam ". Xét châu Ô, Lý ta nối liền ở Phương Nam...khảo cứu tận ngọn nguồn thì đất này từ thời Hồ, Lê trở đi, triều đình mới đặt thành quận, huyện. Từ sau khi nhà Trần, nhà Hồ ra chiếu cho dân chuyển đến sinh sống thì về ngôn ngữ gần giống dân châu Hoan, về phong tục có khác ngoại tộc, xấp xỉ ngang hàng thượng quốc” [77].
Miếu thờ tượng 8 tay - Mỹ Xuyên
Miếu thờ tượng Bà Chuẩn Đề - Lương Hậu
Như vậy, giọng Huế là sự pha trộn giọng nói người châu Hoan hòa âm với giọng nói người Chăm tạo ra âm Huế, một phát âm khu vực mang tính lịch sử của sự hòa hợp Việt - Chăm. Sau cuộc hợp nhất lãnh thổ hòa bình bằng hôn nhân tặng đất, khát vọng mở cõi, hội nhập lại gia tăng, những cuộc chiến giành giật đất đai diễn ra liên tục. Hệ quả là Trần Duệ Tông chết trận khi tiến vào kinh đô Champa ( năm 1337). Nhà Trần suy yếu, quân Chăm liên tục tấn công Thăng Long. Dưới triều vua Chế Bồng Nga ( 1360-1390), người Chăm phát triển cường thịnh trên nhiều lĩnh vực. Chế Bồng Nga đã huy động và thống lĩnh quân Chăm 3 lần đại phá kinh thành Thăng Long của Đại Việt (1371, 1377 và 1390) “ giặc ùa vào thành, đốt phá cung điện, cướp lấy con gái, ngọc lụa đem về... Chúng đốt trụi cung điện, nhà cửa. Thư tịch, sổ sách do vậy sạch không" [78]. Tình trạng ấy chấm dứt vào cuối thế kỷ XIV khi Chế Bồng Nga chết, triều đình Champa rối loạn. Nhà Hồ lên ngôi đánh dấu một thời kỳ mới hội nhập lãnh thổ.
c. Cuộc hội nhập lãnh thổ lần thứ ba vào thời Hồ ( 1400-1406)
Nhà Hồ sau khi cướp ngôi nhà Trần(  1400) đã tiến hành cuộc dời đô. Kinh đô mới được xây dựng trên vùng đất Thanh Hóa. Việc chuyển đô về thành Hồ, ngoài ý nghĩa xây dựng kinh đô mới trên vùng đất "cố thổ" thì đây cũng là vùng đất trung tâm gần hơn nhìn về phương nam trong quá trình mở cõi.
Những năm đầu thế kỷ XV là những đợt tiến quân của Hồ Quý Ly xuống Champa gây áp lực ép vua JayaSinhavarman V (1400-1441). Vua Chiêm buộc
“ dâng đất Chiêm Động để xin rút quân” [79], phần đất Chiêm Động ( Quảng Nam- Đà Nẵng) ngày nay được sát nhập vào lãnh thổ chung dân tộc. Cùng năm đó phần đất động Cổ Luỹ ( Quảng Ngãi ngày nay) lại hội nhập vào lãnh thổ chung do nhà Hồ quản lý. “ Họ Hồ đánh Chiêm, người Chiêm dâng đất, Quý Ly bắt dâng hết cả đất Chiêm Luỹ của Chiêm rồi đặt làm phủ Thăng Hoa” 3. Chưa đủ, “ Quý Ly bắt ép phải sửa tờ biểu là dâng nộp cả động Cỏ Lũy, rồi chia đất ấy thành 4 châu Thăng Hoa Tư Nghĩa. Đặt An phủ sứ và An phủ phó sứ lộ Thăng Hoa để cai trị; miền đầu nguồn đất ấy thì đặt trấn Tân Ninh. Chiêm Thành thu lấy những dân phụ cận đưa về nước. Người ở lại thì bổ làm quan.” 4. Viên quan đầy năng lực là Nguyễn Cảnh Chân làm An phủ sứ lộ Thăng Hoa, “ lấy Hiệu Chính hầu Chế Ma Nô Đà Nan làm Cổ Lũy huyện thượng hầu trấn châu Tư, Nghĩa, chiêu dụ, vỗ về dân chúng người Chiêm” 5.
 Để xây dựng củng cố vùng đất mới nhà Hồ thi hành nhiều chính sách tích cực khẳng định vị thế của vương triều. Năm 1402 " Hán Thương cho đắp sửa đường xá từ thành Tây Đô đến Hoá Châu. Dọc đường đặt phố xá và trạm truyền thư, gọi là đường thiên lý" [80] thuận tiện đi lại đẩy mạnh giao thông từ kinh đô đến vùng đất mới. Tổ chức chia phần đất được sát nhập thành những đơn vị hành chính để quản lý chặt chẽ, thống nhất.
       Cùng với chính sách an dân, để tăng cường sức sống cho vùng đất mới. Năm 1403, “ Hán Thương đem những người có ruộng và có của dời đến Thăng Hoa, biên chế thành quân ngũ. Quan lại ở các Lộ, Phủ, Châu, huyện chia đất cho họ ở. Người ở châu nào thì thích tên hai chữ châu ấy vào hai cánh tay để làm dấu hiệu. Đến năm sau đưa vợ con đi theo, giữa đường bị bão chết đuối, dân phần nhiều ta oán. Hán Thương mộ dân nộp trâu để cấp cho dân mới dời đến ở Thăng Hoa, người nộp được ban tước” [81]. Những người Việt vào sinh sống ở đây ngoài chịu sự quản lý của quan lại người Việt, họ còn chịu sự quản lý của quan lại người Chăm.
Cuộc hội nhập lần thứ ba này có những điều kiện lịch sử mới:
Đây là vùng đất kinh đô xưa của người Chăm một vùng đất trù phú giàu có, dân cư đông đúc với những kinh thành cổ Simhapura, Indrapura, cùng thánh địa thiêng liêng Mỹ Sơn. Một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa kéo dài hơn 10 thế kỷ tự chủ của người Chăm. Vùng đất cơ bản nuôi dưỡng, phát triển văn hóa Champa. Bên cạnh đó triều đình Đại Việt chủ thể cuộc sáp nhập lúc này khó khăn chồng chất bởi nạn ngoại xâm từ phương Bắc, sự dịch chuyển kinh đô nên có chính sách khá mềm dẻo. Người Chăm hầu như được giữ nguyên sinh sống trên mảnh đất của họ, có chăng chỉ là sự thay đổi quyền quản lý.
Thông tin trên cho thấy, cuộc sáp nhập này về cơ bản nhà Hồ không di dân người Chăm ra phía bắc, người Chăm vẫn ở lại đất cũ, các tầng lớp trên người Chăm trừ một bộ phần ra đi thì một phần được giữ phận quản lý, phong tước hầu thuộc triều đình Đại Việt. Ngược lại nhà Hồ lại chủ động di dân phía Bắc vào phía nam vùng đất mới sáp nhập. Bên cạnh những quan lại người Việt được cử vào có quan lại người Chăm và người Chăm sinh sống ở đây dưới sự quản lý  song trùng của quan lại  người Việt và  người Chăm.
Vậy quá trình cộng cư ấy như thế nào? Theo một công trình nghiên cứu cho biết về cơ bản người dân Chăm giai đoạn này vẫn lưu lại vùng đất cũ [82]. Người Việt vào sinh sống cùng người Chăm, bên cạnh những truyền thống văn hóa Việt, thì văn hóa Chăm vẫn tồn tại đan xen nhau. Sự tồn tại của văn hóa Chăm do người dân duy trì đến mức năm 1435, khi biên khảo cuốn Dư địa chí, Lý Tử Tấn đã viết: “Dân vùng này nhiễm tục cũ của người Chiêm” [83]. Nhiễm tục của người Chiêm có hai xu hướng: số người Việt vào đây không nhiều hơn người Chăm hoặc văn hóa Champa có những điểm tương đồng với văn hóa Việt và  khi sống xen cư những yếu tố văn hóa Chăm được người Việt tiếp thu. Sinh sống trong vùng đất mới, người Việt nói tiếng Chăm để giao tiếp với người Chăm và ngược lại, người Chăm phải nói tiếng Việt. Theo thời gian giọng nói của hai tộc người hòa đồng nhau tạo nên giọng Việt mang đặc trưng xứ Quảng: “ Giọng xứ Quảng thường ở bè trầm, ồ ồ, nằng nặng, bằng bằng” [84], không giống giọng xứ Huế là sự pha giọng của người Châu Hoan với giọng người Chăm. Có lẽ với số dân ở lại đông, sự có mặt của quan lại người Chăm cho nên vùng đất này giữ
được nhiều yếu tố Chăm, hình thành nên nét đặc trưng văn hóa xứ Quảng, không những giọng nói mà còn các nghi lễ tín ngưỡng, hệ thống đo lường khá riêng biệt, để sau này khi tiếp xúc với vùng đất, các thương nhân ngoại quốc khi đến đây đã gọi
Nhà thờ họ Hồ ở Bồ Bản
(Hòa Phong, Hòa Vang)
xứ này là “ Quảng Nam Quốc”. Những thời kỳ lịch sử sau, do sự ổn định tình hình xã hội của vùng đất, người dân Việt mới di cư rầm rộ vào đây để khai khẩn. Theo khảo sát của Huỳnh Công Bá, riêng vùng phía Bắc Quảng Nam theo thống kê có đến 64 họ có nguồn gốc từ các tỉnh Hải Dương, Thanh Hóa, Nghệ An và kinh đô Thăng Long vào đây lập nghiệp, trong đó có 32 họ từ Nghệ An chiếm 50% [85]. Điều này cũng phù hợp với những kết quả khảo sát khác như tại Trà Kiệu ( Duy Xuyên, Quảng Nam) có Đình Ngũ Xã thờ 5 vị tiền hiền của 5 dòng họ khi vào vùng đất này lập nghiệp. Tài liệu thờ tại đình cho biết, 5 dòng họ này vào đây vào năm 1472 khi theo Lê Thánh Tông đi chinh phạt Chiêm Thành. Một số nhà thờ Họ ở Quảng Nam cùng cho biết như nhà thờ Họ Hồ ở Bồ Bản ( Hòa Vang, Đà Nẵng) vào đây lập nghiệp sau năm 1476, hay họ Trần ở Hòa Tiến cũng sớm có mặt trên vùng đất. Khảo sát trên địa bàn Quảng Nam ngày nay, tại các vùng kinh đô cũ như Đồng Dương ( Indrapura) vẫn có những gia đình người Chăm sống cộng cư trong cộng đồng người Việt, họ mang các họ Chế, Trà, Ông truyền thống của người Chăm. Tại Trà Kiệu ( Simhapura) hay một số làng trên địa bàn, một số gia đình Chăm, số người Chăm vẫn sống xen cư cùng người Việt. Đặc biệt vùng núi Đại Lộc ( Quảng Nam) có cả một xã với hơn 3.000 người Chăm sinh sống, họ có nhà thờ dòng họ và mang họ Nguyễn như người Việt. Những người Chăm này cho đến nay, ăn, mặc, thói quen sinh hoạt hằng ngày, nhà cửa, quần áo trang phục hoàn toàn như người Việt, khó phân biệt được với người dân xung quanh. Khi nghiên cứu vấn đề người Chăm và người Việt ở Quảng Nam trong lịch sử, có nhà nghiên cứu đã thốt lên: “ Thế thi hóa ra tất cả những người Quảng Nam hiện nay đều mang trong người năm mươi phần trăm dòng máu của người Chăm? Và còn hơn thế nữa họ đang nói tiếng Việt bằng giọng Chăm!” [86]
Sự có mặt đa số là người Chăm trên vùng đất Quảng Nam dần Việt hóa, có thể đó là lý do mà mãi sau này, khi các chúa Nguyễn hùng cứ phương Nam vẫn chỉ đặt phủ chúa trên vùng đất Thừa Thiên - Huế mà không dám đặt ở Quảng Nam, mặc dù vùng đất này giàu có, trù phú, rộng rãi hơn.
 Sự có mặt của người gốc Chăm ở lại với số lượng đông là một điều kiện, khi chính quyền Đại Việt suy yếu, chính quyền người Chăm muốn giành lại đất, người dân vùng lãnh thổ mới lại ủng hộ. Năm 1407, quân Minh sang xâm lược, cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại, người Chăm lại giành quyền quản lý các châu Thăng - Hoa - Tư Nghĩa, đến chân đèo Hải Vân giáp châu Hóa. Những người Việt di cư thuần Việt phải chạy về Hóa Châu, một bộ phận Việt - Chăm ở lại.
Khu di tích Mỹ Sơn
Di tích Đồng Dương
Sử cũ có ghi: “ Đến khi Chiêm Thành cất quân định thu lại đất cũ, dân di cư sợ chạy tan cả, bọn Hối Khanh trở lại Hóa Châu, chỉ một mình Ma Nô Đà Nan chống nhau với Chiêm Thành, thế cô sức núng bị người Chiêm giết chết” [87].
Phả tộc Phan làng Đà Sơn ( Quảng Nam) ghi lại cho biết: “ Khi nhà Minh đánh bại nhà Hồ đem đất Chiêm Động, Cổ Lũy trả lại cho Chiêm Thành thì người Việt do họ Hồ điều vào nay lại chạy ra Hóa Châu, ông Phan Công Nhân vẫn khôn khéo xử trí để đảm bảo cho người Việt được an toàn” [88]
Sau khi cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại, người Chăm lại tiếp tục quản lý vùng đất. Với tư cách là chủ các di tích, phong tục, tập quán của người Chăm được phục hồi, bên cạnh đó có những yếu tố văn hoá Việt dần gia nhập hoà bình vào văn hoá vùng đất. Chính vì thế mà hệ thống di tích, di vật văn hoá Chăm ở đây được giữ lại vô cùng phong phú cho đến ngày nay.
d. Cuộc hội nhập lãnh thổ lần thứ tư vào thời Lê Sơ ( 1427-1527)
 Sau  mười năm ( 1418 -1428) gian lao kháng chiến giành thắng lợi. Nhà Lê được thành lập xây dựng nhà nước quân chủ phong kiến hùng mạnh. Nhà Lê tiếp tục được thực thi việc tái nhập lãnh thổ. Năm 1444 do " chúa Chiêm Thành là Bí Cai vào cướp thành châu Hóa. Sai Nhập nội kiểm hiệu thái bảo Lê Bôi và Tổng quản Lê Khả đem 10 vạn quân đi đánh" [89]. Năm 1446 " bọn Lê Thụ tiến công thành Chà Bàn phá tan quân giặc, bắt được chúa nó là Bí Cai và các phi tần, bộ thuộc, ngựa voi vũ khí cùng các hàng tướng rồi đem quân về" 2. Sau nhiều lần tiến quân xuống phương Nam, năm 1471, Lê Thánh Tông chỉ huy chinh phạt tiến đánh kinh đô Chà Bàn ( Vijaya) sáp nhập vùng đất này, lập ra đơn vị hành chính mới là Quảng Nam thừa tuyên. Lãnh thổ Đại Việt mở đến chân đèo Cù Mông
( Phú Yên). Sau cuộc sáp nhập này, cơ bản lãnh thổ do người Chăm quản lý  từ phía Nam đèo Ngang đến Bắc đèo Cù Mông đã trở thành một bộ phận lãnh thổ chung Đại Việt và sau 400 năm, người Chăm đã trở thành một tộc người trong cộng đồng chung dân tộc. Người Chăm chỉ quản lý vùng đất từ Phú Yên trở vào. Vua Lê Thánh Tông chia phần đất còn lại của người Chăm quản lý thành 3 nước nhỏ, phong vương để ràng buộc. Người Chăm ở Vijaya ngoài số bị chết trong chiến tranh, một số bị bắt đưa ra ngoài Bắc, thì đa số người Chăm vẫn ở lại vùng đất, trở thành dân của Đại Việt. Chỉ còn lại một bộ phận nhỏ của người Chăm cư trú từ Phú Yên đến Bình Thuận.
Đây là vùng đất có bề dày gần 5 thế kỷ là trung tâm văn hoá, chính trị kinh tế của người Chăm, cho nên dân số ở đây khá đông đúc. Sự sáp nhập này đã phân cư dân Chăm thành 3 nhóm: số dân bị đưa ra phía Bắc ( Hoàng tộc, quan lại, binh sĩ, thợ thủ công…; một bộ phận có thể di  chuyển nơi cư trú về phía Nam hoặc ra bên ngoài. Đa số còn lại vẫn ở lại sinh sống trên vùng đất dưới sự quản lý của triều đình Đại Việt. Số người Chăm đưa ra Bắc chủ yếu về các vùng Đông Đô
 ( Thăng Long); Tây Đô ( Thanh Hóa). Những người Chăm ở lại vùng đất mới hội nhập dưới quyền quản lý của triều đình Đại Việt như  thế nào? Nhà Lê " lấy đất Chiêm Thành đặt làm thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng Hoa"[90]. Theo
" Thiên Nam dư hạ tập của bản triều có chép rằng trong đời Hồng Đức định bản đồ... Quảng Nam Thừa tuyên sứ ty quản 3 phủ 9 huyện: Phủ Thăng Hoa 3 huyện... Phủ tư Nghĩa 3 huyện ...Phủ Hoài Nhơn 3 huyện..." 2. Những người Chăm ở lại nhà Lê " Ra sắc chỉ cho Thái bộc tự khanh xét họ tên của bọn người Chiêm...Họ của người Chiêm thì mới cũ theo đúng quy chế... Cấm quan viên và dân chúng không được lén lút chứa giấu người Chiêm Thành" 3. Những người Chăm ở lại dần Việt hóa theo quy chế quản lý và từng bước theo thời gian hòa nhập vào văn hóa Việt.
      Tháp Cánh Tiên (Bình Định)
      Tháp Dương Long (Bình Định)
Điều tra khảo sát cho thấy, tại vùng đất thành Chà Bàn xưa ( An Nhơn, Bình Định) vẫn còn một số người gốc Chăm cư trú, họ mang các họ Chế, Trà, Ông. Nhưng khi hỏi về nguồn gốc Chăm họ nói đó là các cụ kể lại, chứ còn hiện tại, họ tổ chức cuộc sống và sinh hoạt hoàn toàn là người Việt. Trong quá trình sinh sống, họ tiếp thu hội nhập các thành tựu văn hoá Việt, bên cạnh duy trì đời sống tinh thần văn hoá Chăm tạo nên bản sắc văn hoá riêng của địa phương. Hiện tượng này cũng diễn ra tại Vân Canh là nơi có khoảng trên 5.000 người Chăm đang sinh sống, hay gần 20.000 dân Chăm ở Phú Yên, họ hòa nhập vào khối cộng đồng chung vào văn hóa Việt nhưng vẫn có những phong tục tập quán riêng của người Chăm còn bảo lưu trong đời sống vật chất và tinh thần. Khi hỏi về nguồn gốc văn hoá Chăm được duy trì gìn giữ thì câu trả lời chỉ là những hồi cố về quá khứ. Sự có mặt đông đảo của người Chăm trên vùng đất đã phần nào lý giải cho sự tồn tại đậm đặc, sừng sững của những tháp Chăm còn lại cho đến ngày nay trên vùng đất Bình Định.
e. Cuộc hội nhập lãnh thổ lần thứ năm vào thời các chúa Nguyễn ( 1611-1694)
Do những biến động xã hội sự tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến cuối triều Lê, phải đến đầu thế kỷ XII, các chúa Nguyễn mới tiếp tục sự nghiệp mở cõi. Đứng chân vững chắc tại Thuận Hoá và Quảng Nam thừa Tuyên, sau khi chặn đứng sự bành trướng của tập đoàn phong kiến Lê Trịnh, các chúa Nguyễn dành sự quan tâm đến việc mở cõi phương Nam.
 - Năm 1611, nhân sự vụ người Chiêm xâm hấn, Nguyễn Hoàng cử tri huyện Tuy Viễn là Lương Văn Chánh cùng chủ bạ là Văn Phong phối hợp với quân dân phủ Hoài Nhơn đem quân đi đánh lấy đất Phú Yên ngày nay rồi đặt làm phủ Phú Yên với hai huyện là Đồng Xuân và Tuy Hoà. Sai Văn Phong làm Lưu thủ phủ Phú Yên. Lãnh thổ nhà Nguyễn quản lý kéo dài về phía Nam đến hết địa phận tỉnh Phú Yên.
 - Năm 1653, nhân người Chiêm quấy rối, lấn đất Phú Yên, Nguyễn Hoàng sai Hùng Lộc hầu cầm quân đi đánh dẹp và mở mang thêm đất đến sông Phan Rang, đặt làm hai phủ Thái Khang và Diên Ninh, đặt dinh trấn thủ Thái Khang, đưa quan lại quân dân vào khai thác vùng đất mới. Đến thời kỳ này về phía Nam, đất đai nhà Nguyễn mở rộng đến tận phía Bắc đất Phan Rang ngày nay.
 - Năm 1692, vua Chiêm là Chế Bà Tranh đưa quân gây hấn, Chúa Nguyễn Phúc Chu sai tướng sang đánh, lấy đất Phan Rí, Phan Rang đặt ra phủ Bình Thuận gồm hai huyện An Phước và Hoà Đa, phần đất còn lại ( vùng Ninh Thuận này nay) do người Chăm cư trú đổi làm trấn Thuận Thành, cho con vua nước Chiêm cũ làm cai cơ, tước hầu thuộc quản lý của chúa Nguyễn. Như vậy, về cơ bản dải đất Nam Trung Bộ hiện nay đến năm 1692 đã sáp nhập vào phần đất do các chúa Nguyễn quản lý được chia thành các phủ, trấn, huyện, bổ quan lại cai trị quản lý thống nhất. Sau nhiều năm quản lý trên phần đất người Chăm cư trú, năm 1694, chúa Nguyễn đổi phủ Bình Thuận làm trấn Thuận Thành giao lại cho người Chăm là Kế Bà Tử với chức Tả đô đốc, để người Chăm quản lý người Chăm. Sau khi đã hoàn thành thống nhất lãnh thổ phần đất miền Trung, chúa Nguyễn tiếp tục từng bước sáp nhập phần đất Nam Bộ.
Đền thờ của người Chăm (Ninh Thuận)
Tượng Kút người Chăm (Bình Thuận)
Với sự nỗ lực cùng xu hướng hội nhập tất yếu, từ năm 1611 đến năm 1694, trong vòng 83 năm, các chúa Nguyễn đã hoàn thành việc sáp nhập lãnh thổ vùng Nam Trung Bộ ngày nay. Ở vùng đất từ Phú Yên đến Bình Thuận, những nhóm người Chăm cuối cùng đã hội nhập vào cộng đồng dân tộc chung. Cùng với việc bổ nhiệm quan lại người Việt quản lý thì tầng lớp trên, người Chăm cũng được đổi họ, phong tước, nhận chức quan lại trực tiếp quản lý người Chăm. Mặc dù nằm trong cộng đồng chung nhưng người Chăm có những cộng đồng nhỏ riêng tự quản lý, họ được duy trì lối sống văn hóa riêng nằm trong tổng thể văn hóa chung dân tộc. Chính vì thế mà số lượng người Chăm cư trú trên vùng đất này hiện nay chiếm số lượng đông nhất. Điển hình là trấn Thuận Thành ( gồm địa bàn hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay). Dù có những biến động của lịch sử nhưng cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận - Bình Thuận ngày nay vẫn giữ được nét văn hóa riêng của người Chăm trong lịch sử.
Theo điều tra khảo sát, năm 2003, tại Ninh Thuận có 61.000 người, Bình Thuận 29.312 người [91], con số này chắc tăng lên nhiều sau gần 10 năm công bố. Những người Chăm ở đây sống khá tập trung, hình thành các làng ( Plei) giữ được các nghề sản xuất thủ công như làm gốm, dệt vải... Họ vẫn duy trì phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo riêng của tộc người mình, nhưng đã được những yếu tố văn hóa Việt  tham gia tích cực, người Chăm mang họ Việt khá đông, dòng dõi Hoàng tộc mang họ Nguyễn như bà Nguyễn Thị Thiềm ( Bắc Bình, Bình Thuận) được coi là công chúa cuối cùng của Hoàng tộc Chăm. Dấu ấn văn hóa Chăm ngày nay chỉ trong những ngày lễ hội truyền thống, ma chay, cưới hỏi... mới bộc lộ nổi trội.
Như vậy, về cơ bản, trong quá trình hội nhập dân tộc, đa số người Chăm đã ở lại sinh sống trên dải đất miền Trung, bằng nhiều nẻo đường khác nhau, người Chăm đã hội nhập vào và đa phần sau nhiều thế hệ họ đã trở thành người Việt. Nếu tính từ năm 1072 khi bộ phận phía Bắc hội nhập vào lãnh thổ, đến năm 1471 là vùng đất vùng đất phía nam từ Bình Định trở ra, những cộng đồng người Chăm ở lại có gần 400 năm sống chung và dưới quyền quản lý của chính quyền Đại Việt. Theo thời gian, áp lực dân số của người Việt gia tăng, tăng nhân khẩu tự nhiên và tăng cơ học do triều đình cùng với người dân di cư vào khai phá quản lý vùng đất mới. Sự tiếp cận thường xuyên với văn hóa Việt, sự áp đặt của mô hình quản lý, người Chăm từng bước hòa vào khối cộng đồng chung sau gần 4 thế kỷ đã trở thành người Việt. Một con đường dễ tiếp nhận nhất là sự hòa huyết giữa hai tộc người. Người Việt lấy vợ, chồng người Chăm và ngược lại, những thế hệ sau dần trở thành người Việt khi họ sống dưới chính quyền do người Việt quản lý.
Giai đoạn lịch sử sau năm 1600, sự sáp nhập lãnh thổ, chúa Nguyễn để cho người Chăm quy chế tự trị cộng đồng người Chăm riêng, người Chăm được tự quản lý dưới sự bảo trợ của chúa Nguyễn, các cộng đồng được giữ nguyên đơn vị cư trú, địa bàn sinh sống cùng duy trì phong tục tập quán, văn hóa của mình nên người Chăm vẫn tồn tại với tư cách tộc người độc lập. Môi trường sống xen cư, sự quan hệ mật thiết giữa hai tộc người dưới cùng một chính quyền quản lý là điều kiện để người Chăm dần Việt hóa. Có lẽ nhận ra điều này, những giai đoạn lịch sử sau, người Chăm đã cố gắng tránh cuộc sống xen cư, những cuộc hôn nhân Việt - Chăm để gìn giữ gốc Chăm của những người đang sinh sống. Khảo sát các làng Chăm ở Ninh Thuận - Bình Thuận, dù không thành quy định bắt buộc nhưng những cuộc hôn nhân Chăm - Việt hầu như không được các làng, dòng họ người Chăm hoan nghênh. “ Sức hút” của mỗi cá nhân trong những cuộc hôn nhân Việt - Chăm vẫn diễn ra nhưng điều kiện cư trú riêng rẽ đã giữ cho người Chăm còn lại đến ngày nay. Bên cạnh đó, thời gian hội nhập vùng đất này chưa dài nên người Chăm vẫn bảo lưu được văn hóa tộc người và giữ được bản sắc làm phong phú thêm bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Người Chăm hiện nay là một trong những tộc người trong 54 dân tộc anh em. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Chăm ở Việt Nam có dân số 161.729 người, cư trú tại 56 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Chăm cư trú tập trung tại các tỉnh: Ninh Thuận ( 67.274 người, chiếm 41,6% tổng số người Chăm tại Việt Nam), Bình Thuận ( 34.690 người, chiếm 21,4% tổng số người Chăm tại Việt Nam), Phú Yên ( 19.945 người), An Giang ( 14.209 người), thành phố Hồ Chí Minh ( 7.819 người), Bình Định ( 5.336 người), Đồng Nai
( 3.887 người), Tây Ninh ( 3.250 người) [92]. Sự hòa hợp tộc người trong lịch sử với thời gian khác nhau nên ở Việt Nam ngày nay còn 3 nhóm người Chăm chính:
        Nhóm Chăm Hroi bao gồm những người Chăm hiện đang sống rải rác từ Nha Trang trở ra, chủ yếu là Phú Yên và Bình Định;
         Nhóm Chăm Ninh Thuận - Bình Thuận gồm những người Chăm cư trú ở Ninh Thuận, Bình Thuận.
        Nhóm Chăm Nam Bộ bao gồm những người Chăm sinh sống chủ yếu ở An Giang, thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh Đông Nam Bộ; cư trú ở các tỉnh như: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Tây Ninh, An Giang, Kiên Giang, Bình Dương, Bình Phước... Trong đó tập trung chủ yếu ở An Giang và thành phố Hồ Chí Minh. Người Chăm ở đây có cùng nguồn gốc với người Chăm Hroi và người Chăm ở Ninh Thuận - Bình Thuận.
Lễ hội của người Chăm
( Nguồn: Trung tâm nghiên cứu văn hóa Champa - Ninh Thuận)
      Gần một thiên niên kỷ hội nhập, cho đến nay có thể nói, về cơ bản, đa số người Chăm ở miền Trung từ Quảng Bình đến Khánh Hoà, sau nhiều thế hệ chuyển hóa, họ đã trở thành người Việt, dòng máu chảy trong cơ thể họ có phần nào dòng máu Chăm từ xa xưa lưu lại, như một nhà nghiên cứu nói “ mang trong người năm mươi phần trăm dòng máu của người Chăm” [93] . Cho đến nay, những người Chăm chuyển hóa thành người Việt sống chung cùng người Việt thường mang các họ Trà, Bố, Chế, Ông mà theo lịch sử Champa, những họ này thường là Hoàng tộc. Sao những người bình dân ấy lại có họ danh tính cao quý đó, có nhà nghiên cứu cho rằng, người Chăm bình dân không có họ. Chỉ khi họ hòa hợp, theo phong tục Việt mới có họ, cho nên đa phần người Chăm Việt hóa có họ Việt. Những người Chăm Việt hóa muốn giữ lại ký ức về Chăm xưa tự nhận các dòng họ Hoàng tộc trong lịch sử. Đó là nguyên nhân có những người Việt mang họ Chăm. Trong khi đó những người Chăm thuộc Hoàng tộc lại mang họ Việt, như họ Nguyễn ở Bình Thuận. Phải chăng khi hội nhập lãnh thổ, triều đình ban họ Hoàng gia Việt, trao quyền quản lý cộng đồng cho họ và con cháu họ duy trì về sau để tỏ phần tôn quý. Trường hợp này, xảy ra cũng giống như quan lại người Chăm ra Bắc được chính quyền ban cho họ Việt
4. Những người Chăm ra đi.
 Cho đến nay chưa tìm thấy nguồn tài liệu nào ghi chép về số người Chăm ra đi trong khu vực nhưng sự hiện diện của các nhóm người Chăm trên các quốc gia ngoài Việt Nam hiện nay đặt ra câu hỏi, họ ra đi lúc nào và họ đi đâu? Bằng những mối quan hệ lịch sử, chúng ta có thể bước đầu tìm hiểu về nhóm người Chăm này.
Định cư trên dải đất hẹp miền Trung, một bên là núi, một bên là biển, trong không gian mở, người Chăm đã có xu hướng vươn ra biển. Nằm trên con đường buôn bán trên biển giữa các vùng trong khu vực với nhau, lại khai thác nguồn tài nguyên rừng, biển phong phú với những sản vật quý hiếm, người Chăm sớm tham gia buôn bán trên biển. Kinh tế biển trở thành một phần quan trọng, tư liệu sản xuất của người Chăm. Theo sử liệu ghi lại, vua Phạm Văn trưởng thành từ người buôn bán: “ Văn theo con buôn  đến Trung Quốc rồi đến Lâm Ấp bày cho Phạm Dật làm cung thất, thành ấp, khí giới, do đó được làm tướng... Phạm Dật chết, Phạm Văn bèn chiếm ngôi vua” [94]. Những cuộc cướp phá từ biển đi vào của người Mã Lai, Java vào thế kỷ VIII đã cung cấp một lối nhìn, bổ sung cho nhận thức của người Chăm về các tộc người cư trú vùng đa đảo. Chính vì thế từ trong lịch sử, người Chăm đã có tư duy gắn bó với cư dân biển, nơi có  những tộc người cùng ảnh hưởng văn hoá từ Ấn Độ. Dưới triều vua Bhadravarman II một vị quan người Chăm là Po Klun Pilil Rajadvara đã hai lần đi Java để học khoa học thần bí [95]; hay thế kỷ VIII, theo văn bia tại Mỹ Sơn cho biết vua Champa Gangarraja “ coi việc nhìn thấy sông Hằng là một niềm vui lớn, nói thế rồi Người ra đi từ đây đến sông Hằng” 2. Vào thế kỷ XI, người Chăm còn cử các thương nhân sang đào Hải Nam ( Trung Quốc) mua ngựa để xây dựng đội quân kỵ binh nhằm phối hợp với ngưới Tống đánh Đại Việt, hay vào thế kỷ XII người Chăm đưa thủy quân sang đánh Ăngko ( Khmer). Đặc biệt cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV, vua Chăm Chế Mân còn cưới một công chúa Java làm vợ và phong làm Hoàng hậu. Như vậy, người Chăm có cái nhìn ra biển, biết và có mối quan hệ truyền thống với các quốc gia xung quanh liên quan đến biển. Truyền thống đi biển và buôn bán xuyên xuốt trong lịch sử người Chăm, mà sau này có nhận xét: “Người Chăm là những người giỏi đi biển. Họ là những thủy thủ dũng cảm” 3. Những điều kiện đó khiến cho mỗi khi xã hội Champa có thay đổi đã khiến có một bộ phận người Chăm đi ra biển và ra cư trú ở bên ngoài.
Sự có mặt của người Chăm ở bên ngoài do các yếu tố: Sự tranh giành địa vị trong Hoàng tộc Champa khiến những nhóm người thất thế phải ra đi. Nhóm người đi ra phía Bắc nương nhờ Đại Việt. Nhóm người vượt biển ra  cư trú tại  lãnh thổ khác trong vùng.
 Quá trình sáp nhập lãnh thổ vào Đại Việt khiến cho một bộ phận người Chăm, Hoàng tộc, người bình dân rời mảnh đất sinh sống vượt biển sang cư trú tại các vùng các nước láng giếng.
Những người Chăm do ra ngoài buôn bán với các nước trong khu vực, khi tình hình trong nước bất ổn thì họ ở lại nơi buôn bán.
Theo tài liệu lịch sử cho biết, khi vùng đất Châu Ô, châu Lý sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt, một số người Chăm đã vượt biển sang cư trú tại đảo Hải Nam ( Trung Quốc). Họ là những thương nhân thông thạo con đường hải thuyền buôn bán từ miền Trung sang đảo Hải Nam, được lệnh vua Champa sang nhà Tống mua ngựa để xây dựng lực lượng kỵ binh. Khi kế hoạch thất bại họ ở lại sinh sống.
Vào thế kỷ XIII  thế kỷ XIV, người Chăm có mối quan hệ mật thiết với các quốc gia quần đảo. Vua Chăm Chế Mân cùng với việc cưới cô công chúa nhà Trần Huyền Trân thì còn cưới một bà vợ người Giava và phong làm Hoàng Hậu. Mối thân tình Hoàng tộc ấy là chỗ dựa cho tầng lớp trên người Chăm khi mà xảy ra các cuộc biến động, người Chăm lại có một bộ phận tìm về nơi quen ấy cư trú.
 Theo nguồn tài liệu khác cho biết: vào thế kỷ XV khi Lê Thánh Tông đánh chiếm thành Chà Bàn năm 1471, hoàng tộc Champa của Vijaya phải sống lưu vong ở Malacca ( khoảng 20.000 người). Năm 1481 - 1482 một sứ thần được vua Cổ Lai, một vị vua Champa lưu vong, cử đến triều đình nhà Minh dâng sớ nhờ giúp đỡ để lấy lại lãnh thổ đã mất vào tay Đại Việt, trong sớ kể rằng lãnh thổ Champa bao gồm vùng đất như sau: “ Đất nước của chúng tôi bao gồm 27 xứ, 4 phủ, 1 châu, và 22 huyện. Lãnh thổ này trải dài về phía Ðông giáp biển, phía Nam giáp Chân Lạp, Tây giáp Núi Rừng của người Lê ( Lê Nhân Sơn), và Bắc giáp A- mu- la- bu” (Wade 2003: 14).
Theo thống kê hiện nay số người Chăm định cư trong các nước Đông Nam Á như: Campuchia khoảng trên 270.000 người, được gọi là Khmer Islam; Thái Lan trên 15.000 người; Malaysia trên 10.000 người. Một số người Chăm di cư sang các nước khác, như tộc Utsul ở đảo Hải Nam ( Trung Quốc), đến bang Terengganu ( Malaysia). Inđonêxia hay vùng Hạ Lào, nhưng số lượng không đông so với dân bản địa [96] . Người Chăm còn sống ở Myanma rất nhiều, là một trong bốn dân tộc lớn nhất Myanma. Hầu hết mang họ Aung cùng họ với họ Ung của người Chăm ở Việt Nam ( đã bị Việt hoá).
Do nhiều nguyên nhân lịch sử, người Chăm rời miền Trung Việt Nam đến các nước như Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Indonêxia hay Myanma vv. . vào những thời gian khác nhau. Dù sinh sống nơi đâu, hoà vào cuộc sống của cộng đồng cư dân bản địa, nhưng người Chăm vẫn giữ một số truyền thống văn hoá riêng, họ vẫn ý thức mình là người Chăm, nơi cội nguồn ra đi từ dải đất miền Trung Việt Nam trong lịch sử. Chính vì thế cuối thế kỷ thứ XVIII đến đầu thế kỷ thứ XX, một bộ phận người Chăm ở Campuchia do mâu thuẫn với người Khmer bản địa và sự ngược đãi của chính quyền Campuchia nên đã tìm về cư trú ở An Giang và Tây Ninh tạo nên cộng đồng người Chăm ở hai tỉnh này. Những năm sau đó, một bộ phận nhỏ người Chăm này chuyển đến một số tỉnh khác ở Nam Bộ để sinh sống. Nguyên nhân sự có mặt của người Chăm ở các vùng trong khu vực có thể do nguyên nhân từ các cuộc sáp nhập lãnh thổ, những tầng lớp trên Hoàng Tộc, quan lại chạy đi; những người Chăm buôn bán ở nước ngoài không trở về, họ định cư lại nơi buôn bán; hay những cuộc di dân ồ ạt do chiến tranh họ chạy sang các nước lân cận như Campuchia, Thái Lan, nhưng số lượng này không nhiều so với số lượng người Chăm ra phía Bắc, hay ở lại quê cha đất tổ. Đa số người Chăm ở lại đất quê hương và họ trở thành một bộ phận trong cộng đồng cư dân đa sắc tộc trong khối cộng đồng chung của dân tộc Việt Nam ngày nay. Dù số người ra đi không nhiều, nhưng dù đi đến đâu, sinh sống ở đâu họ vẫn là người Chăm, mang theo những tập tục văn hóa, mà trải qua năm tháng cho đến nay họ còn giữ được.
Điểm qua nguồn gốc, cùng những sự biến động của người Chăm trong lịch sử mong góp phần nhận diện tộc người Chăm qua những biến động lịch sử làm tiền đề để đối thoại với nền văn minh người Chăm đã dựng xây, góp một bản sắc riêng độc đáo vào văn hóa dân tộc để lại cho đến ngày nay.



Bảng Thống kê dân số Chăm tại Việt Nam
 ( theo tài liệu Tổng điều tra dân số ngày 1- 4- 2009)
Số TT
Tên tỉnh (thành phố)
Số dân
 Ghi chú
1
Ninh Thuận
67. 274

2
Bình Thuận
34. 690

3
Phú Yên
19. 945

4
An Giang
14. 209

5
Hồ Chí Minh (Sài Gòn )
7. 819

6
Bình Định
5. 336

7
Đồng Nai
3. 887

8
Tây Ninh
3. 250

9
Bình Dương
837

10
Gia Lai
659

11
Bình Phước
568

12
Lâm Đồng
473

13
Kiên Giang
400

14
Đắc Lắc
290

15
Khánh Hoà
271

16
Long An
218

17
Bà Rịa - Vũng tầu
198

18
Cần Thơ
173

19
Trà Vinh
163

20
Sóc Trăng
106

21
Cà Mau
106

22
Vĩnh Long
91

23
Đồng Tháp
90

24
các tỉnh khác
676





[1] Nguyễn Đình Khoa: Nhân chủng học Đông Nam Á, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1983, tr. 56-57, tr 59-60.
[2] M. Colani: Nocropole de Sa Huỳnh, Hà Nội, 1937, tr 8-12. Bản dịch Tư liệu Viện Khảo cổ

1 Vũ Công Quý: Văn hóa Sa Huỳnh, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội 1991, tr 181.
2 Vũ Công Quý: Văn hóa Sa Huỳnh, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1991, tr 181.
3 Vũ Công Quý: Văn hóa Sa Huỳnh, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1991, tr 182.

[5] , 2, Tham khảo thêm: - Nguyễn Đình Khoa... Sđd, tr 153.
- M. G Lêxin & N. N. Tchêbôcxarôp: Sự phân bố cư dân thời cổ đại ở miền Đông Á và Đông Nam Á. Tập công trình của Viện Dân tộc học, T XVI, Mátxcơva. 1951.
 - W. G. Sotheim II: Reflections on the new data of Southeast Asian Prehistory: Austronesian origin and consequence - Paperpresen ted at the fist Internationnal conference on comparative austronnesian Linguisties, January 1974; Honolulu - Hawai.
[6] Tạ Đức: Nguồn gốc người Việt - Người Mường (Phụ lục 4D: Nguồn gốc người Chăm) Nxb. Tri Thức. Hà Nội, 2013, tr 603-632.

[8] Nguyễn Thị Hậu: Di tích mộ chum miền Đông Nam Bộ - Những phát hiện mới tại Cần Giờ. Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Thành Phố Hồ Chí Minh, 1996.
[9] Vũ Công Quý: Văn hóa Sa Huỳnh, Nxb. Văn hóa Dân tộc. Hà Nội, 1991, tr 174.

[10] Tham khảo thêm Vũ Công Quý: Văn hóa Sa Huỳnh, Nxb. Văn hóa Dân tộc. Hà Nội, 1991, tr. 187-190.
[11] Vũ Công Quý: Văn hóa Sa Huỳnh, Nxb. Văn hóa Dân tộc. Hà Nội, 1991, tr 184.
[12] Những di tích thời tiền sử và sơ sử Quảng Nam - Đà Nẵng. Nxb Đà Nẵng 1992.
[13] Những di tích thời tiền sử và sơ sử Quảng Nam - Đà Nẵng. Nxb Đà Nẵng 1992.
2 Vũ Công Quý: Văn hóa Sa Huỳnh, Nxb. Văn hóa Dân tộc. Hà Nội, 1991,  tr 187-190.
3 Vũ Công Quý: Văn hóa Sa Huỳnh, Nxb. Văn hóa Dân tộc. Hà Nội, 1991,  tr 187-190.
4 Vũ Công Quý: Văn hóa Sa Huỳnh, Nxb. Văn hóa Dân tộc. Hà Nội, 1991, tr 187-190.
5 Vũ Công Quý: Văn hóa Sa Huỳnh, Nxb. Văn hóa Dân tộc. Hà Nội, 1991, tr 187-190.
[17] Trịnh Sinh và những người khác: Báo cáo khai quật di chỉ Khảo cổ học Trà  Kiệu (Quảng Nam). Tư liệu Viện Khảo Cổ học.
[18] Trịnh Sinh và những người khác: Báo cáo khai quật di chỉ Khảo cổ học Trà  Kiệu (Quảng Nam). Tư liệu Viện Khảo cổ học.
[19] Trịnh Sinh và những người khác: Báo cáo khai quật di chỉ Khảo cổ học Trà  Kiệu (Quảng Nam). Tư liệu Viện Khảo cổ học.
[20] Nguyễn Thị Kim Dung: Khai quật Hoàn Châu - Trà Kiệu năm 2000. Những phát hiện mới về khảo cổ học, Nxb. Khoa học Xã hội. Hà Nội, 2001.

[21] Nguyễn Thị Kim Dung: Khai quật Hoàn Châu - Trà Kiệu năm 2000. Những phát hiện mới về khảo cổ học, Nxb. Khoa học Xã hội. Hà Nội, 2001.
2 Lê Đình Phụng: Kiến trúc điêu khắc ở Mỹ Sơn- Di sản văn hóa thế giới. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội 2004.
[22]  Tham khảo thêm: “Quảng Ngãi tỉnh chí”. Đăng trên Tạp chí Nam Phong năm 1933. Tài liệu lưu trữ tại Thư viện tổng hợp tỉnh Quảng Ngãi.
[23] Phan Khoang: Việt sử xứ Đàng Trong. Nxb Văn học. Hà Nội 2000, tr 31.
[24] Phạm Chánh Trung: Lâm Ấp không phải là Champa. Theo Việt Sử ngày 28- 5- 2007.
[25] Tạ Đức: Nguồn gốc người Việt - Người Mường (Phụ lục 4D: Nguồn gốc người Chăm) Nxb. Tri Thức. Hà Nội, 2013, tr 603-632.
[26] Geetesh. Sharma: Những dấu vết văn hóa Ấn Độ tại Việt Nam. Nxb.Văn hóa văn nghệ. Thành phố Hồ Chí Minh, 2012, tr 33- 45- 64.
[27] Tùy Thư Quyển 82, Liệt truyện 47. Dẫn theo G Maxpero: Vương quốc Chàm. Nxb VanOest.Pari1928. Lương Ninh: Vương quốc Champa. Nxb Đại học Quốc gia. Hà Nội 2004.
[28]Tùy Thư Quyển 82, Liệt truyện 47. Dẫn theo G Maxpero: Vương quốc Chàm Nxb VanOest. Pari 1928. Lương Ninh: Vương quốc Champa.Nxb Đại học Quốc gia. Hà Nội 2004.
[29] Nguyễn Đình Khoa: Nhân chủng học Đông Nam Á, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1983, tr 56-57, tr 59-60.  

[30] Theo tài liệu thống kê trong cuộc Tổng điều tra dân số năm 2009, dẫn nguồn: http://Vi. Wikipedia. org?Wiki? Người Chăm.
[31] Tham khảo thêm A. Cabaton: Les Chams de L’ Indochine. Revue Coloniale 1905, tr 321-334.
[32] M. G. Maxpero: Vương quốc Chàm Nxb VanOest.Pari 1928. (Bản dịch tư liệu Viện Khảo cổ học).
[33] Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập I, tr 159.
[34] Nguyễn Duy Hinh: Người Chăm xưa và nay. Nxb Từ điển Bách Khoa. Hà Nội, năm 2010.
[35] Lương Ninh: Vương quốc Champa.Nxb Đại học Quốc gia. Hà Nội 2004 ( phần Phụ lục II: Cổ sử Trung Hoa).
[36]  Dẫn theo G Maxpero: Vương quốc Chàm Nxb VanOest. Pari 1928.
[37] Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập I, tr 216.

[38]  Tỉ lệ này chúng tôi dựa theo tỉ lệ mà Ph. D Ăng ghen đưa ra trong Tuyển tập luận văn: Vấn đề quân sự ở Phổ và đảng công nhân Đức. Trong tuyển tập Mak - Ph. D Ăng ghen. Tập III. NXB Sự Thật. Hà Nội 1982.
[39] Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998, tr 266.
3 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998, tr 274 -275.
4 Dẫn theo Li Tana: Xứ Đàng Trong. NXB Trẻ. TPHCM 1999, tr 54.
5- 6 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 448 - 449.
[40] Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 51
[41] Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998, Tập I, tr 222
2Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998, Tập I, tr 266
3Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998, Tập I, tr 274-275
[42] Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 24
[43] Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 96
[44] Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 98
4 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 357
5 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 449
[45] 1 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập III, tr 46
2 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập III, tr  47
3 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập III, tr 47
4.Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập III, tr 75
[46] Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 204
2 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập I, tr 224
3 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập I, tr 260
4 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập I, tr 262
5 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập I, tr 292 -293

[47] Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập I, tr 292 -293.
2 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập I, tr 293. 
Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập I, tr 304.
4 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 320.
5 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập III, tr 321.
6 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập I, tr 331.
7 Việt sử lược. Nxb Thuận Hóa. Hà Nội 2005, tr 167.
8 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 44.
Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 133.
10  Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 181.
[48] Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 190.
2 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 193.
3 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 366


[51] Tham khảo thêm: Thuyền uyển tập anh. Nxb Văn học. Hà Nội 1990.

[52] Thích Thanh Từ: Thiền sư Việt Nam. Thành Hội Phật giáo TP HCM - 1995.
 Theo nhiều nguồn tài liệu cho biết: Thiền sư Thảo Đường gốc người Trung Hoa, có mặt tại Chiêm Thành. Ông là đệ tử của thiền sư Trùng Hiển ở Tuyết Đậu (Tuyết đậu trung Hiển, nhằm đời pháp thứ ba của phái Vân Môn).
2 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 88.
[53] Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 12.
2 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 267.
3 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 268.
4 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 331.

[54]Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb. Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 118.
[55] Nguyễn Hồng Dương: Về pho tượng Chàm ở đền Hồng Sơn (Nghệ An). Những phát hiện mới về khảo cổ học, Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, 2001, tr 815- 816.
[56] Hoàng Xuân Chinh: Một chùy kinh cương đồng mới được phát hiện.Những phát hiện mới về khảo cổ học, Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, 1998, tr 693.
[57] Nguyễn Tiến Đông: Tác phẩm điêu khắc Champa tại Bảo tàng Vĩnh Phúc. Những phát hiện mới về khảo cổ học, Nxb. Khoa học Xã hội. Hà Nội, 2006, tr 838- 839
[58] Đinh Đức Tiến: Những dấu ấn văn hoá Chăm ở Hà Nội. Luận án cao học. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Hà Nội 2010
[59] Tống Trung Tín:Nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lý và thời Trần (Thế kỷ XI - XIV). NXB KHXH. Hà Nội 1997
[60] Lê Đình Phụng: Bàn thêm về dấu tích văn hóa Chăm trong không gian văn hóa Thăng Long. T/C Dân Tộc học số 4- 2010, tr 15 - 21
[61] Đinh Đức Tiến: Những dấu ấn văn hoá Chăm ở Hà Nội. Luận án cao học. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Hà Nội 2010
[62]  Bò ( Nandin) là linh vật - Vật cưỡi của thần Shiva, một vị thần tối cao trong Ấn Độ giáo, nên những người Chăm theo tôn giáo này đều có tục kiêng ăn thịt bò
[63] Theo tài liệu khảo sát Khảo cổ tại địa bàn miền Trung, trong công trình kiến trúc Champa, sự có mặt của vật liệu đá ong khá muộn vào thế kỷ X - XI do họ học được cách khai thác đá ong từ người Khmer.
[64] Đại Nam Quốc sử Diễn ca viết về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40 - 43 với mục đích:
Một xin trả sạch thù nhà
Hai xin nối lại nghiệp xưa họ Hùng.
[65] Tham khảo thêm: Đại Việt Sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội 1998. Tập I, tr 222.
[66] Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập I, tr 275.
[67] Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập I, tr 278.
[68] Lương Duy Tâm: Địa lý - Lịch sử Quảng Bình. Bảo tàng tổng hợp Quảng Bình xuất bản năm 1998.
[69] Tham khảo thêm: Hà Văn Tấn - Phạm Thị Tâm. Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội 1975.  
[70] Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 86.
3 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập I, tr 89.
4 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập I, tr 90.
5 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập I, tr 91.
[71]  Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 91.
2 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr  91.
3 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 142.
 4 Lê Quý Đôn toàn tập. Tập I: Phủ biên tạp lục.Nxb. Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1997, tr  37 - 38.
[72] Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 91.
[73] Dương Văn An: Ô châu cận lục.Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1997, tr 45.
2 Dương Văn An: Ô châu cận lục.Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1997, tr 45.
3  Dương Văn An: Ô châu cận lục.Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1997, tr 46.
4 Dương Văn An: Ô châu cận lục.Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1997, tr 49.
1 Ngô Đức Thịnh - Nguyễn Việt : Các loại hình cày hiện đại của các dân tộc Đông Nam Á. Tạp chí Khảo cổ học số 4 - 1981, tr 55 - 56
[75] Dương Văn An: Ô châu cận lục.Nxb. Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1997, tr 45.
[76] Tham khảo thêm Cao Xuân Phổ ( chủ biên): Nghệ thuật Đông Nam Á. Hà Nội 1983, tr 159
4 Dương Văn An: Ô châu cận lục.Nxb. Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1997, tr 44.
5 Dương Văn An: Ô châu cận lục.Nxb. Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1997, tr 47.
6 Cao Xuân Phổ ( Chủ biên): Nghệ thuật Đông Nam Á. Xem phần Trần Văn Khê: Âm nhạc tại các nước trong vùng Đông Nam Á. Hà Nội 1983, tr 223.
[77] Dương Văn An: Ô châu cận lục.Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội 1997, tr 133 -134.
[78] Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb. Khoa học Xã hội. Hà Nội 1998. Tập II, tr 154.
[79] Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb. Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 202
3 Lê Quý Đôn toàn tập. Tập I: Phủ biên tạp lục. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội 1977, tr 35.
4 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb. Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 202 - 203.
5 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb. Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 203.
[80] Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb. Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 202.
[81] Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb. Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 203.
[82] Tham khảo thêm Hồ Trung Tú: Có 500 năm như thế - Bản sắc Quảng Nam từ góc nhìn phân kỳ lịch sử. Nxb Đà Nẵng 2011.
[83] Nguyễn Trãi toàn tập - Phần Dư địa chí. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội 1972, tr 235
[84] Mai Thúc Long: Giọng nói xứ Quảng. Trong: Văn hóa Quảng Nam những giá trị đặc trưng. Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch Quảng Nam 2001
[85] Huỳnh Công Bá: Công cuộc khai khẩn và phát triển làng xã Bắc Quảng Nam từ giữa thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVIII. Luận án PTS Sử học. 1996. Tư liệu Khoa Lịch sử Trường Đại học Sư Phạm I - Hà Nội
[86] Tham khảo thêm Hồ Trung Tú: Có 500 năm như thế - Bản sắc Quảng Nam từ góc nhìn phân kỳ lịch sử. Nxb Đà Nẵng 2011.
[87] Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb. Khoa học Xã hội. Hà Nội 1998. Tập II, tr 219.
[88] Tham khảo thêm Hồ Trung Tú: Có 500 năm như thế - Bản sắc Quảng Nam từ góc nhìn phân kỳ lịch sử. Nxb Đà Nẵng 2011.
[89] Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb. Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 355.
2 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb. Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 357.
[90] Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb. Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 357.
2 Lê Quý Đôn toàn tập. Tập I: Phủ biên tạp lục. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội 1977, tr 44.
3 Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb. Khoa học Xã hội. Hà Nội, năm 1998. Tập II, tr 460
[91] Theo tài liệu thống kê trong cuộc Tổng điều tra dân số năm 2009 dẫn nguồn: http://Vi. Wikipedia. org?Wiki? Người Chăm.
[92] Theo tài liệu thống kê trong cuộc Tổng điều tra dân số năm 2009 dẫn nguồn: http://Vi. Wikipedia. org?Wiki? Người Chăm.

[93] Tham khảo thêm Hồ Trung Tú: Có 500 năm như thế - Bản sắc Quảng Nam từ góc nhìn phân kỳ lịch sử. Nxb Đà Nẵng 2011.

[94] Tấn thư. Truyện 67.Tấn Thư do Phòng Kiều biên soạn trong niên hiệu Trinh Quán ( 627 -649). Dẫn theo Nguyễn Duy Hinh: Người Chăm xưa và nay. Nxb Từ điển Bách khoa & Viện Văn hóa. Hà Nội  2010, tr 495 -496
[95]  Dẫn theo G. Maxpero: Vương quốc Chàm ( Bản dịch tư liệu Viện Khảo cổ học)
Văn bia Mỹ Sơn III. Mặt A. Dẫn theo Lương Ninh: Lịch sử vương quốc Champa. Nxb Đại học Quốc gia. Hà Nội 2004, tr 244.
3 Dẫn theo G. Maxpero: Vương quốc Chàm ( Bản dịch tư liệu Viện Khảo cổ học)
[96] Theo tài liệu thống kê trong cuộc Tổng điều tra dân số năm 2009 dẫn nguồn: http://Vi. Wikipedia. org?Wiki? Người Chăm.