Thứ Sáu, 6 tháng 2, 2015

XỨ BẮC- VÙNG VĂN HÓA THĂNG LONG TỎA SÁNG
                                                                     
          Bắc Ninh – Bắc Giang, vùng đất cổ ngàn xưa nằm ở  phía bắc sông Hồng – dòng sông Mẹ- tạo nên diện mạo đồng bằng châu thổ Bắc Bộ, vùng đất phên dậu của trung tâm đồng bằng bắc bộ, từ trong lịch sử đã trở thành một vùng đất kết tinh văn hóa của dân tộc, đặc biệt hơn khi dân tộc giành được độc lập, nhà Lý chuyển kinh đô về  Thăng Long,  vùng đất này có vai trò trọng yếu là tấm lá chắn trong việc gìn giữ nền độc lập và phát triển kinh tế văn hóa của dân tộc. Thời kỳ nhà Lý, được mở đầu là Lý Công Uẩn và kết thúc là Lý Chiêu Hoàng ( 1010 -1225). Năm 1010, sau một thời gian dài trải qua hai triều đại Đinh – Tiền Lê nền độc lập tự chủ của dân tộc giành được và củng cố vững chắc, trước điều kiện phát triển mới của dân tộc; Lý Công Uẩn cho dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long, đánh dấu một kỷ nguyên mới của dân tộc. Với vị thế địa lý của  miền đất, Bắc Ninh -Bắc Giang trở thành phên dậu phía bắc của vùng đất kinh đô, đặc biệt vùng đất Bắc Ninh, nơi phát tích của nhà Lý  được coi là đất thang mộc của vương triều, đã có mối quan hệ mật thiết với trung tâm kinh tế văn hóa chính trị của dân tộc, mở ra một thời kỳ mới của Bắc Ninh- Bắc giang trong lịch sử và văn hóa dân tộc. Cùng với Thăng Long, thời kỳ nhà Lý nhiều công trình kiến trúc tôn giáo được chú trọng xây dựng tại đây. Do vị thế đất vùng lá chắn kinh đô; chính vì thế các cuộc chiến tranh từ phương bắc, cùng với điều kiện tự nhiên khốc liệt; các biến động của xã hội cho nên cho đến nay nhiều công trình kiến trúc, các tác phẩm điêu khắc đá mà sử liệu ghi chép cho đến hiện nay không còn.
I. Một vài ghi chép trong lịch sử

Năm 1010 Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long, để tri ân với quê hương sinh thành, việc đầu tiên ông “ đổi châu Cổ Pháp gọi là Phủ Thiên Đức...sông Bắc Giang gọi là sông Thiên Đức. Xuống chiếu phát tiền kho 2 vạn quan thuê thợ làm chùa ở Phủ Thiên Đức, tất cả 8 sở đều dựng bia ghi công”(1)
Cuộc cải cách hành chính đầu tiên của vương triều mới trên đất Thăng Long là cải cách  hành chính , “ Đổi 10 đạo làm 24 lộ, châu Hoan, châu Ái làm trại”(2)
(1-2) Đại Việt sử ký toàn thư- NXBKHXH 2004; tr 241-242
Vậy trong 24 lộ, vùng xứ Bắc là một đơn vị hành chính Lộ- Lộ Bắc Giang bao gồm vùng đất phía bắc sông Cái ( sông Hồng) gồm đất Bắc Ninh – Bắc Giang ngày nay, “ lộ Bắc Giang thì tương đương với lộ Bắc Giang thời Trần, là miền Hà Bắc” (1); nhưng có lẽ phủ Thiên Đức được triều đình trực tiếp quản lý. Lộ Bắc Giang trở thành phiên dậu phía bắc và có mối quan hệ mật thiết đa chiều với kinh đô Thăng Long và vùng đất phát tích vương triều- Phủ Thiên Đức. Để bảo vệ kinh đô Thăng Long về phía Bắc, nhà Lý đặc biệt chú trọng vùng đất này. Năm 1027 “ Xuống chiếu cho Khai thiên vương ( Phật Mã) đi đánh châu Thất Nguyên, Đông Chinh Vương ( Lực) đi đánh văn châu”(2) dẹp nạn cát cứ. Thắt chặt, ràng buộc  và nắm giữ vùng đất phía Bắc các vua nhà Lý thực hiện gả  công chúa  cho  tù trưởng có thế lực quản lý vùng đất (3), thực hiện mối quan hệ thông gia bền chặt,biến vùng đất này làm quê  cháu con phên dậu. Tháng 7 năm 1029 vua Lý Thái Tông gả công chúa Bình Dương cho châu mục Lạng Châu là Thân Thiệu Thái(4). Đây là dòng họ lớn, quản lý vùng đất nhiều đời có thế lực tại địa phương. Sự tin cậy thể hiện qua các cuộc viếng thăm của các vua triều Lý đến vùng đất. Tháng 9 năm 1032 “ vua đi châu Lạng bắt voi, rồi từ châu Lạng trở về”( 5). Từ nền tảng ban đầu, các triều vua Lý đều gắn bó với vùng đất. Sử cũ ghi lại:
Tháng 3 năm 1059 Lý Thánh Tông. “ vua đi săn ở vùng sông Nam Bình thuộc Lạng châu, nhân đó ngự đến nhà phò Mã Thân Cảnh Nguyên”(6). Năm 1066 “Con trai công chúa Bình Dương là Thân Đạo Nguyên lấy công chúa Thiên Thành ” (7) con vua Lý Thánh Tông.
(1) Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các thời.NXB Thuận Hóa 1998 tr 118.
(2)Đại Việt sử ký toàn thư- NXBKHXH 2004; tr 247. Sách có chú thích hai châu này thuộc huyện Tràng Định, Văn Quan và một phần Văn Lăng ( Lạng Sơn) ngày nay.
(3)Theo một số tài liệu cho biết  từ thời Lý Công Uẩn đã gả công chúa cho Giáp Thừa Quý châu mục châu Lạng châu. Tham khảo thêm:Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt Lịch sử ngoại giao và tông giáo thời Lý. NXB Quân đội nhân dân – 2003. Di sản văn hóa Bắc Giang: Khảo cổ học từ tiền sử đến Lịch sử. Bảo tàng Bắc Giang 2008.
(4)Đại Việt sử ký toàn thư- NXBKHXH 2004; tr 253; Việt sử lược.NXB Thuận Hóa 2005tr 81.
(5) Đại Việt sử ký toàn thư- NXBKHXH 2004; tr 255
(6)Việt sử lược NXB Thuận Hóa 2005 . tr 91
(7)Việt sử lược NXB Thuận Hóa 2005 . tr 91
Năm 1072 “ Châu mục Lạng châu là Dương Cảnh Thông dâng con hươi trắng. Quần thần dâng biểu chúc mừng. Cho Dương Cảnh Thông làm thái Bảo”(1). Năm 1079 Lạng châu dâng voi trắng... công chúa Thiên Thành dâng con rùa 6 mắt 3 chân.” (2).Năm 1091 “ tháng 2 vua ngự lên châu Lạng xem bắt voi”(3). Năm 1106 “ Công chúa Thiên Thành dâng 2 voi trắng”(4).Năm 1147” “ tháng 11 làm nhà cho công chúa Thụy Thiên ở châu Lạng”(5). Năm 1148 Công chúa Thụy Thiên về châu Lạng(6). Năm 1149 tháng 11 công chúa Thiên Thành mất”(7). Năm 1167 “ công chúa Thiên cực gả về cho châu mục lạng châu là Hoài Trung Hầu” ( 8) . Ghi chép trên cho thấy trên 200 năm từ khi khởi dựng, nhà Lý luôn quan tâm gắn bó với vùng đất phương bắc. Chắt lọc tài liệu cho thấy, vùng đất này có hai dòng họ lớn: họ Dương và họ Giáp sau đổi là họ Thân. Họ Dương có người được thăng chức Thái Bảo- một trong 3 vị trí cao nhất của hệ thống quan lại. Đặc biệt là họ Thân có đến 3 đời làm phò mã vương triều Lý với các cặp được biết rõ :
- Công chúa Bình Dương – Thân Thiệu Thái( năm 1029)
- Công chúa Thiên Thành -  Thân Đạo Nguyên ( năm 1066)
 Công chúa Thiên Cực – Hoài Trung Hầu ( chưa rõ tên- năm1167)
 Ngoài ra, năm 1059 có phò mã Thân Cảnh Nguyên.Phò mã Thân Cảnh Nguyên theo năm tháng, năm 1029 công chúa Bình Dương lấy Thân Thiệu Thái thì 30 năm sau ( 1059)  xuất hiện vị phò mã này, có lẽ đây là con của Thân Thiệu Thái lấy công chúa nhà Lý nên sử không ghi và 7 năm sau ( 1066)Thân Đạo Nguyên con của công chúa Bình Dương lấy công chúa Thiên Thành con vua Lý Thánh Tông mới được sử ghi lại. Đây có lẽ là hai anh em con Thân Thiệu Thái.Công chúa Thiên Cực là con vua Lý Anh Tông gả cho Hoài Trung Hầu chỉ được ghi chép ở Việt sử lược mà không có trong Toàn thư. Sự kéo dài của mối quan hệ hôn nhân được sử ghi chép lại từ 1029 đến 1167 là 138 năm, như vậy là chưa đủ có thể còn hơn nữa với mối quan hệ họ hàng Hoàng tộc nên không được ghi chép. Nhưng 8 đời vua Lý, họ Thân có đến 3 đời làm thông gia, trong đó kéo dài nhất thời gian công chúa Thiên Thành làm dâu ở đây 83 năm(?)( 1066 – 1149)  đã
(1-2-3-4- 8)Việt sử lược NXB Thuận Hóa 2005 . tr 99- 103- 106- 152
(5-6- 7)Đại Việt sử ký toàn thư- NXBKHXH 2004; tr 317. ) )

chứng tỏ sự ảnh hương của văn hóa thời Lý ở đây. Đây là một vấn đề của lịch sử cần được tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Bên cạnh mối quan hệ thông gia, vùng đất xứ Bắc cũng là nơi được hoàng tộc Lý quan tâm, công chúa Thụy Thiên được vua  làm nhà năm 1147 và đến ở vào năm1148. Công chúa Thụy Thiên đến vùng đất do lấy chồng hay mến cảnh yêu người đến cư ngụ. Đây cũng là vấn đề cần quan tâm, bởi vùng xứ Bắc là nơi Phật giáo khá phát triển rầm rộ dưới vương triều Lý.
Dù là mối quan hệ thông gia, hay miền đất được  Hoàng tộc nhà Lý quan tâm đã cho thấy mối quan hệ giữa miền đất và kinh thành Thăng Long có một chiều dài thẳm sâu trong lịch sử. Mối quan hệ đó đa phương, đa chiều mật thiết với kinh đô Thăng Long và văn hóa Thăng Long thời Lý  hội tụ đủ điều kiện để tỏa sáng trên vùng đất xứ bắc.
II. Những dấu tích vật chất
Vùng đất xứ Bắc với mối quan hệ mật thiết với vương triều Lý và kinh đô Thăng Long, trong lịch sử có nhiều công trình kiến trúc được xây dựng khá quy mô, hội tụ nhiều yếu tố văn hóa Lý nhưng cho đến nay,  trải qua thời gian do thiên nhiên cùng những biến động xã hội những di tích thời Lý trên vùng đất Bắc Giang khá hiếm hoi
1. Những di tích- di vật.
- Đền Tòng Lệnh xã Trường Giang huyện Lục Ngạn.
Đền thờ công chúa Bình Dương- vị công chúa nhà Lý lấy Thân Thiệu Thái- được tôn vinh là Thánh mẫu. Theo thần tích cho biết khi về đây công chúa Bình Dương có dựng hai cung An Khánh và cung Bồng Lai. Cung An Khánh thuộc địa bàn thôn Tòng Lệnh.Hiện nay nơi đây có đền và chùa Tòng Lệnh. Di vật tại chùa Tòng Lệnh hiện còn một chân tảng đá kích thước đường kính 0,7m, xung quanh chạm khắc hoa văn cánh sen gồm 24 cánh vây quanh. Đây là hiện vật có thời Lý. Phải chăng bên cạnh cung cư trú, công chúa nhà  Lý đã dựng ngôi chùa thờ phật bên cạnh, một đặc trưng phật giáo thời Lý mà ngày nay vẫn để lại dấu tích.
- Tại thôn Bồng Lai xã Phượng Sơn huyện Lục Ngạn hiện còn để lại một nhóm phế tích kiến trúc gồm :
Cung Bồng Lai, theo truyền thuyết đây là cung do công chúa Bình Dương xây dựng khi dời nhà sang đây.

Chân tảng( đá) trang trí cánh sen
Khảo sát cho thấy trên địa điểm cung Bồng Lai tìm được một số viên gạch hình vuông cạnh 0,32m, dày 5cm, mặt được trang trí họa tiết hoa cúc hoa cúc được tạc tỉ mỉ chau chuốt. Một chân tảng bằng đá trang trí hoa văn cánh sen vây quanh
Đền Bồng Lai tại thôn Bồng Lai xã Phượng Sơn huyện Lục Ngạn. Theo thần tích đây là ngôi đền thờ viên quan Vũ Tỉnh lấy công chúa nhà Lý, làm quan đến Tả Bộc Xạ, khi mất được dân dựng đền thờ. Hiện nay di tích vẫn còn.
 Đền Cầu Từ, thôn Cầu Từ xã Phượng Sơn huyện Lục Nam, theo thần tích thờ Vũ Thành con Vũ Tỉnh. Cuộc khai quật tại đây năm 2007 với 30m2 và 36m2 năm 2008 đã tìm được dấu vết kiến trúc được hiện vật chủ yếu có niên đại thời Lý gồm chân tảng, ngói lợp, đầu ngói ống, đồ gốm sứ, cho thấy có thể đền được xây dựng sau này trên nền kiến trúc cung thời Lý ngày xưa(?).
 Bên cạnh địa bàn xã Phượng Sơn, điều tra khảo sát còn cho thấy một số phế tích kiến trúc thời Lý với nhiều hiện vật kiến trúc trong đó có viên gạch đề ghi “ Lý gia đệ tam đế  Long thụy thái bình tứ niên tạo” vào năm 1057 đời vua Lý Thái Tông- thời gian công chúa Bình Dương ở đây.
Những di tích, di vật cho thấy vùng đất này lưu giữ một quần thể kiến trúc thời Lý có quy mô lớn, phân bố rộng ven hai bờ sông Lục Nam, một vùng đất giàu có trù phú thuận lợi giao thông với Thăng Long. Những công trình ở đây được xây dựng mang tính chất cung đình, hiện vật tương đồng với các công trình kiến trúc khác được xây dựng dưới sự bảo trợ của vương triều như chùa Phật Tích, tháp Chương Sơn, Tường Long trong lịch sử.
- Cùng với những kiến trúc cung đình, trên vùng đất xứ Bắc còn nhiều ngôi chùa  theo truyền thuyết được xây dựng từ thời Lý.Theo nội dung xã chí lưu tại đình làng Chể xã Phượng Sơn cho biết cùng sự có mặt của công chúa Bình Dương, Thiên Thành tại vùng đất còn có các công chúa Thụy Thiên, An Hòa không lấy chồng, khi đến vùng đất mến mộ đạo phật đã  đã  dừng chân tu đạo  ở đây. Vua Lý đã cho xây nhà ở cho các công chúa như sử cũ ghi lại
 Chùa Cao xã Khám Lạng huyện Lục Nam là một chùa nổi tiếng xứ Bắc, chùa  được xây dựng trên vùng đất cao thoáng Theo tài liệu lịch sử cho biết chùa được xây dựng vào thời Lý, do những biến động của xã hội và can thiệp của tự nhiên cho  nên dấu vết chùa xưa không còn. Tại địa điểm này hiện nay chùa Cao vẫn được duy trì. Trên nền cũ chùa xưa trong quá trình đào đắp xây dựng  phát hiện được nhiều hiện vật thuộc thời Lý như phù điêu hình lá đề có khắc nổi đôi rồng mào lửa, một con chó đá, một tượng kiểu Garuda.- Tượng chó đá: tượng làm bằng đá gan gà cứng, cao 34cm, đế rộng 18 cm  tượng đục khắc ở tư thế ngồi. Trên thân được chạm khắc hoa văn khá tỉ mỉ
Tượng hình Garuda:  tượng  làm bằng đá nhám, gan gà cứng tượng chỉ trạm khắc nửa ngoài, còn nửa trong để thô. đầu tượng giống như đầu con chim cú mèo, có yếm cổ, trên yếm có vạch ngang. Hai chân chống thẳng lên đế tượng, khá độc đáo.

Tượng đá Chùa Cao- Khám Lạng – Lục Nam
 Cuộc điều tra năm 1989 đã tìm được ở đây nhiều hiện vật thời Lý với các chất liệu khác nhau. Điêu khắc đá hình thủy ba nhiều lớp nhô lên uốn mềm mại hay lá đề chạm khắc hình rồng uốn đối xứng nhau. Kích thước lá đề: cao 0,29m, rộng 0,32m, dày 6,5cm.- Hoa văn trang trí: Lưỡng rồng chầu mặt trời, cân xứng. Miệng rồng ngậm ngọc, thân uốn lượn hình sin. Chân có 3 móng vuốt. Diềm lá đề trang trí hình xoáy ốc.
Lá đề ( đá) trang trí hình rồng
Diềm chân( đá) trang trí Thủy Ba
Phiến đá có lỗ mộng: được làm từ đá cát hạt mịn mầu nâu thẫm, chắc là những cấu  kiện trong kiến trúc chùa tháp thời Lý, bởi những lỗ mộng vuụng để tra ngõng có ở cả 4 hoặc 6 mặt các phiến đá trên, trong đó có một tấm được chạm hoa cúc dây ở một mặt, còn các mặt khác có lỗ mộng dọc ngang, rất khó xác định vị trí của nó trong tổng thể kiến trúc chùa tháp cổ ở chùa Cao “ điển hình về hoa lá trong chùa tháp thời Lý là hoa sen và hoa cúc, mỗi bông hoa dù Sen hay Cúc đều được nở gọn trong một vòng dây uốn tròn trổ nhiều lá mọc đối nhau”
Bên cạnh đó là các hiện vật đất nung như các lá đề hiện trạng vỡ mất phần đầu,

Lá đề trang trí hình Rồng
 còn lại phần thân và đáy thể hiện đề tài rồng uốn đối xứng nhau theo đề tài trang trí lưỡng rồng chầu ngọc. Thân rồng uốn lượn hình sin. Chân rồng có 3 móng nhọn. Nhiệt độ nung rất cao, nên hiện vật có độ cứng như sành. Kích thước cao 16cm, rộng 19cm, dày 2,5cm.
Hay đất nung trang trí hình chim Phượng hai mặt khá chi tiết. Đuôi  Phượng uốn lượn hình sin, như hình uốn thân rồng. Thân có hai cánh  xòe ra bao bọc lấy phần thân. Đầu với mỏ nhọn cong hướng lên , lông gáy bay tua.Hình chim có một chân, với 3 móng vuốt. Kỹ thuật vè chi tiết tỉ mỉ sống động. Kích thước  cao 28cm, rộng 23cm, dày 3,5cm.
Gạch trang trí Phượng
Gạch trang trí Phượng

Gạch trang trí cũng tìm được không nhiều. Các viên gạch được trang trí khá đẹp

Gạch lát trang trí Hoa cúc
 Gạch lát trang trí hoa sen
 Với hoa văn hóa cúc dây thể hiện chi tiết tinh tế  Mảnh vỡ kích thước còn lại dài 16cm, rộng 12cm, dày 6cm.  Hoa văn còn nhận biết một phần của đường tròn chính giữa, bên trong trang trí nhũ hoa với 3 vòng đều nhau, bên ngoài là hoa dây uốn mềm mại.Gạch lát nền trang trí hoa sen, có kích thước  dài 38cm, rộng 34cm, dày 5cm. Hoa văn trang trí trên mặt gạch thể hiện hoa sen ở chính giữa một khung hình vuông. Hoa sen có 8 cánh chia làm hai lớp cánh nở xòe rộng
Vật đất nung có hình trang trí vẩy nhiều lớp xếp nhau gồm nhiều mảnh bị vỡ. Hoa văn hình vây cá xếp lớp. Đây có thể là mảnh thân rồng vỡ ra.Những hiện vật tìm được khẳng định thời Lý trước đây có một ngôi chùa có quy mô lớn được xây dựng mang đặc trưng của chùa thời Lý,
Trang trí vây cá
được nhà Lý cho xây. Phải chăng đây là ngôi chùa mà công chúa Thụy Thiên đã từng xuất gia tu tại đây (?)
Chùa My Điền tại thôn My Điền xã Hoàng Ninh huyện Việt Yên, một ngôi chùa chùa tương truyền được xây từ thời Lý nay đổ nát, chùa hiện tại được xây dựng trên nền cũ. Quá trình khảo sát tại đây đã phát hiện một số di vật thời Lý :
 Rồng đá  được phát hiện ở chùa My Điền. Đây là loại rồng được đặt ở thềm chùa. Rồng ở tư thế bò xuôi xuống, tạc bằng chất liệu đá xanh trên đầu rồng có mào lửa, thân rồng uốn theo lối thắt túi có 4 chân. Thân rồng để trơn không có vẩy – Do bị nước phân hoá nên các chi tiết trên thân rồng, đầu rồng không còn rõ nét. Theo nhân dân địa phương cho biết, trước có một đôi, sau bị lấp xuống ao. Sau này sửa chùa tìm lại được con rồng này
Phù điêu bằng đá cát hạt mịn hình lá đề chạm rồng. Có một tấm lá đề còn nguyên vẹn chạm đôi rồng uốn lượn mềm mại, được tỉa tác rất chi tiết  Đường diềm lá đề thời Lý thường là các dấu hỏi…lá đề trang trí hình rồng thời Lý thường được trạm trên các đồ đá xây tháp ( Phật Tích, Tường Long, Chương Sơn….)
 Phiến đá tay vịn thành bậc cửa: Trên đó tạc một con sấu nghê – sóc đang trong tư thế trường từ trên cao xuống, đầu có sừng gắn cạnh tai, thân để trơn , đuôi trẻ thanh sợi. Nhìn chung con sấu nghê – sóc ở chùa Cao “ thô sơ, nhỏ bé hơn nhiều so với con sấu nghê – sóc trong tư thế tay vịn chùa Lạng.
Tượng sư tử: ngồi trên một hình hộp tạc đá cát hạt mịn màu vàng sẫm. Hai chân trước chống thẳng xuống đầu một con sơn nhô ra khỏi mặt bệ, đầu con sơn này cong vát từ dưới lên, tạo văn xoáy chôn ốc. Dưới đáy đến có đục lỗ mộng tra ngõng gần vuông. Trên thân sư tử có các hoa (  5- 7 cánh ) nhỏ là đặc trưng của nghệ thuật Lý”. Những hoa tròn cánh xoáy ngược chiều kim đồng hồ này "thường được trang trí trên mình sư tử và sấu thời Lý. Số lượng các cánh xoáy thay đổi tuỳ từng nơi......
 Bệ đá hạt thô ( 2 tấm), màu vàng nhạt, điêu khắc hoa văn sóng nước. Phiến to dài 44cm. dày 11cm. Đây là những mảnh nhỏ trong cả một bệ đá lớn, nhiều tầng xếp chồng lên nhau đã bị vỡ ra. ở di tích chùa Phật Tích, dù trên bệ tượng Phật, tảng kê chân cột hay trụ búp, dù chỉ một đợt hay tới năm đợt chồng lên nhau thì đều là sóng thắt chân hình nấm. Mỗi ngọn sóng thường có 3 lớp to, nhỏ lồng nhau, một típ sóng thường có từ hai đến ba tầng tạo bởi những thắt gãy của đường cong parabol, cuối ngọn sóng bẻ gấp cong và tạo cho chân sóng kế tiếp bên . Sóng chùa Dạm vẫn như sóng chùa Phật Tích. Sóng nước trang trí ở chùa Cao rất gần gũi với những bệ đá ở Dạm và Phật Tích. Trên phần trang trí sóng nước, chắc sẽ là những hoạ tiết rồng, mây, hoa, lá, chim thần, dàn nhạc trang trí bên trên bệ thờ điển hình của thời Lý.
2. Vùng đất văn hóa Thăng Long tỏa sáng.
Với hai nguồn tài liệu: lịch sử ghi chép và di vật tìm được đã cho thấy văn hóa vùng đất  có mối quan hệ chặt chẽ với văn hóa Thăng Long thời Lý. Mối quan hệ đó thể hiện sự quan tâm của nhà Lý với vùng đất trọng yếu phía đông bắc tổ quốc. Sự quan tâm ấy thể hiện qua sự ràng buộc về hôn nhân, tạo nên mối quan hệ bền chặt giữa vương triều và dòng họ quản lý vùng đất. Do giao thông thuận lợi với kinh đô Thăng Long, người nhà Lý sinh sống trên vùng đất cho nên các công trình kiến trúc ở đây: cung, chùa đều được ảnh hưởng, thấm đậm hình bóng các công trình kiến trúc của Thăng Long hay vùng đất phát tích Thiên Đức. Sự có mặt của các viên gạch đề ghi niên đại, hay các đề tài trang trí rồng, sư tử, thủy ba, chim phượng, trang trí gạch lát nền đều mang mẫu thống nhất với các công trình kiến trúc do triều đình trực tiếp bỏ tiền của xây dựng. Con rồng thời Lý ở đây có thể thấy trên các công trình tháp Chương Sơn, Đọi Sơn ( Nam Hà); Tường Long ( Hải Phòng); Phật Tích ( Bắc Ninh) . Các đề tài trang trí khác đều được thể hiện mang tính chất nghệ thuật cung đình thời Lý. Có thể nói các di tích, di vật thời Lý trên vùng đất phía bắc là một phần diện mạo của văn hóa Thăng Long.

Do điều kiện lịch sử, trên vùng đất có bề dày  truyền thống văn hóa, hội tụ  và phát triển các yếu tố văn hóa dân tộc, khi văn hóa Thăng Long lan tỏa  đến đây đã được tiếp thu, hội nhập, hình thành nên một vùng văn hóa mang đậm sắc thái Thăng Long. Những di tích thời Lý trên đất Bắc giang đã góp thêm một diện mạo, làm phong phú bản sắc văn hóa Việt Nam trong lịch sử./.

Thứ Hai, 2 tháng 2, 2015



QUAN HỆ ĐẠI VIỆT- CHAMPA
DƯỚI VƯƠNG TRIỀU LÝ
                                                                           
            Năm 1010 vương triều Lý chính thức được xác lập với sự lên ngôi của Lý Công Uẩn.  Bước ngoặt lịch sử là việc Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Sử cũ chép “ Mùa thu tháng bảy, vua từ thành Hoa Lư, dời đô ra kinh phủ ở thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long” Lý Công Uẩn đã chọn vùng đất “… ở giữa khu vực đất trời, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tốt tươi phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ hội tụ quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời”.  Sự chuyển đô này đã đánh dấu một thời kỳ mới, tạo tiền đề cho một thời kỳ phát triển rực rỡ của văn hóa Đại Việt, khẳng định bản lĩnh dân tộc. Vương triều Lý tồn tại trên 200 năm ( 1010 – 1225) với nhiều thành tựu hội tụ, phát triển tinh hoa văn hóa của cả dân tộc  trong một thời kỳ lịch sử, trong những đóng góp đó có sự góp mặt của các nền văn hóa từ những  tộc người anh em, trong đó có dân tộc Chăm, một tộc người sinh sống quản lý trên dải đất phương nam
I Những tiền đề  mối quan hệ Việt Chăm trong lịch sử.
Theo các nguồn sử liệu, người Chăm là một tộc người sinh sống chủ yếu trên vùng đất Trung bộ hiện nay kéo dài từ Quảng Bình tới Bình Thuận. Do điều kiện lịch sử, sau nhiều lần nổi dậy chống sự đô hộ của người Hán, từ cuối thế kỷ II (năm 192),  người Chăm đã giành được độc lập, thành lập một quốc gia tự chủ mà sử liệu gọi là Lâm Ấp. Trong  đêm trường tăm tối1000 năm dưới sự đô hộ của các triều đại  phong kiến phương bắc và bền bỉ gìn giữ bản sắc văn hóa chống đồng hóa của người Việt thì người Chăm đã xây dựng một nền văn hóa riêng mang đậm bản sắc của tộc người và tỏa sáng trên vùng đất đông Nam á. Mặc có sự khác nhau, nhưng cùng sinh sống trên dải đất, có mối quan hệ lâu đời trong lịch sử, người Việt và người Chăm đã có giao lưu văn hóa mật thiết với nhau. Những trống đồng sản phẩm văn hóa đặc trưng của người Việt có mặt trên suốt dải đất người Chăm sinh sống như  phát hiện được tại Ba Đồn; Quảng Trạch ( Quảng Bình) Phong Thu ( Thừa Thiên Huế) hay xa hơn tại Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa  đã nói lên điều đó. Trong thời kỳ lịch sử, khi giành được độc lập, người Chăm luôn luôn tìm cách tiến ra bắc, ủng hộ các cuộc khởi nghĩa của người Việt, khiến bọn quan lại đô hộ Trung Hoa phải luôn luôn tìm cách đánh dẹp. Các cuộc chiến điển hình của Đan Hòa Chi ( năm 446); Lưu Phương ( năm 605) đã nói lên điều đó. Bước sang thế kỷ X sau năm 938 người Việt giành được độc lập, xây dựng quốc gia tự chủ thì mối quan hệ Việt – Chăm chuyển sang một bước mới thân thiện và từng bước hòa nhập. Mối quan hệ thân thiện đó thể hiện  sự đan xen giữa người Việt và Chăm. Dưới triều vua Đinh, Phò mã Nhật Khánh “ đem cả vợ con chạy sang Chiêm Thành”; khi Tiên Hoàng chết “ Phò mã Ngô Nhật Khánh dẫn thuyền quân Chiêm Thành hơn nghìn chiếc cướp muốn đánh thành Hoa Lư…” “ Nhật Khánh là con cháu của Ngô tiên chúa Quyền, trước xưng là An vương cùng 12 sứ quân mỗi người chiếm giữ một vùng ”.Dưới triều Lê Đại Hành năm 982 đã cử sứ giả sang giao hảo. Mối bang giao thất bại, khiến cuộc chiến đầu tiên người Việt tiến vào kinh đô Chămpa tại Indrappura  (Đồng Dương- Quảng Nam) với tư cách là đội quân một quốc gia độc lập. Sau trận chiến này, Quản giáp Lưu Kế Tông một vị tướng của Lê Hoàn đã trốn ở lại..Năm 989 “ Quản Giáp Dương Tiến Lộc đem hai châu Hoan  Ái, xin phụ Chiêm Thành.”. Năm 1005 trong khi tranh giành quyền lực “Đông Thành vương thua chạy vào Chiêm Thành bị giết chết”. Đông Thành Vương là Long Tích con vua Lê Đại Hành, cùng Trung Tông vương (Long Việt) Trung Quốc vương ( Long Kính) Khai Minh Vương ( Long Đĩnh) tranh giành ngôi sau khi  vua Lê Đại Hành chết.
 Ngược lại, mối thân thiện ấy còn thể hiện nhà Lê thu nhận người Chăm làm dân Đại Việt: năm 986 người Chiêm Thành là Bồ La Át  đem hơn trăm người họ xin nội phụ” hay trao trả những người Chăm sang sinh sống ở Đại Việt về quê cũ;  năm 992 “ Mùa hạ cho người Chiêm Thành nhận lĩnh hơn 360 người ở thành cũ châu Địa Lý đem về châu Ô Lý” và Triều đình Đại Việt độc lập là chỗ dựa tin cậy cho người Chăm. Năm 994 “ Cháu vua nước Chiêm Thành là Chế Cai vào chầu”.. Như vậy có thể thấy, mối quan hệ bang giao Việt Chiêm trong lịch sử là mối quan hệ  lâu đời, thân thiết gắn bó đa phương, đa diện với nhau, đặc biệt là mỗi khi có sự biến, vùng đất người Chăm quản lý là nơi nương náu cuối cùng. Điều này khác hẳn,người Việt khi gặp sự cố không ngược lên phía bắc để dung thân. Đây chính là tiền đề ban đầu cho mối bang giao Việt – Chăm thời Lý phát triển.
II. Mối quan hệ Đại Việt – Champa dưới vương triều Lý
Với một vương triều mới thành lập, việc sử lý công việc biên viễn là một việc khó khăn phức tạp và lâu dài. Cùng với việc xác lập bảo vệ biên cương phía bắc, vùng biện viễn phía nam cũng được nhà Lý luôn quan tâm chú trọng. Mối bang giao Việt Chăm  dưới vương triều Lý được thể hiện dưới 3 lĩnh vực:  Ngoại giao; quân sự và giao lưu văn hóa.
 1.Quan hệ ngoại giao.
 Khi triều Lý lên ngôi, định đô ở Thăng Long mở đầu mối quan hệ  với tư cách của hai vương triều,  năm 1011 người Chăm đã tỏ lòng hữu hảo bằng cách dâng Sư Tử lên tiến cống, ngay sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi một năm  Mối bang giao thân hữu ấy được thể hiện theo thống kê ghi chép của Việt sử lược, riêng thời Lý, triều đình Champa cử hơn 43 đoàn sứ bộ sang Đại việt tiến cống sư tử, voi trắng, cá sấu cùng nhiều sản vật địa phương  như tơ lụa, vàng bạc vv... Năm 1198 là năm sứ bộ cuối cùng của Chiêm Thành sang cống nhà Lý và xin cầu Phong. Mật độ sứ giả bang giao rất nhộn nhịp có giai đoạn 2 năm sai sứ sang Đại Việt một lần như các năm 1057 đến 1065; hoặc mỗi năm một lần như các năm từ 1081 đến 1089.  Nhưng cũng có thời gian bị gián đoạn từ năm 1050  đến 1055 - 5 năm mới có một đoàn sứ bộ đến Đại Việt hoặc dưới thời vua Lý Thái Tông “ đến nay đã 16 năm rồi mà Chiêm Thành chưa từng sai một sứ giả nào sang”.Như vậy có thể  thấy bình quân hơn 4 năm lại có một đoàn sứ giả Chiêm Thành có mặt tại Thăng Long. Các sứ giả đại diện cho người Chăm khi có mặt tại Thăng long được nhà Lý rất quan tâm đáp lại bằng con đường ngoại giao khá  tế nhị. Năm 1072 “ Tha thuế sợi vải trắng của Chiêm Thành”; năm 1093 sai “ Hàn Lâm học sĩ Mạc Hiển Tích sang sứ Chiêm Thành” năm 1118 mở hội Thiên Phật ( nghìn Phật để khánh thành chùa Thắng Nghiên Thánh Thọ, cho sứ Chiêm Thành đến xem; năm 1126 hội đèn Quảng chiếu ở Long Trì, xuống chiếu cho sứ Chiêm Thành vào xem;  năm 1128 vua Lý lên ngôi sang báo cho Chiêm Thành;  năm 1130 Vua đánh cầu ở Long Trì, cho sứ nước Chiêm Thành vào hầu xem”;năm 1154 “vua nước Chiêm Thành là Chế Bì La Bút dâng con gái vua nhận”. Năm 1199 nhà Lý “ Sai sứ sang phong vua nước Chiêm Thành” vv…
Trong mối quan hệ này  còn nâng cấp mỗi khi có biến động xã hội, theo truyền thống hai bên là chỗ dựa tin cậy của nhau. Năm 1039 “ Con vua Chiêm Thành là Địa Bà Lạt cùng bọn Lạc Thuẫn; Sạ Đâu; La Kế; A Thát Lạt 5 người sang quy phụ nước ta”. Năm 1040 “ Mùa thu tháng 8 người giữ trại Bố Chính của nước Chiêm Thành là Bố Linh; Bố Kha; Lan Đà Tinh đem bộ thuộc hơn 100 người sang quy phụ. Năm 1124 người nước Chiêm Thành là Cụ Ông và 3 người anh em họ đến chầu, tháng 5 cùng năm, người nước Chiêm Thành là bọn Bă Tư Bồ Đà La 30 người sang quy phụ. Năm 1130” Tháng 3 người nước Chiêm thành là Ung Ma, Ung Câu sang quy phụ. Năm 1152 “ người nước Chiêm Thành là Ung Minh Ta Điệp đến cửa khuyết xin mệnh cho làm vua nước ấy. Xuống chiếu cho Thượng chế Lý Mông đem hơn 5.000 người ở phủ Thanh Hoa và châu Nghệ An sang Chiêm Thành lập Ung Minh Ta Điệp làm vua”. Năm 1203 “ Vua nước Chiêm Thành Là Bố Trì bị chú là Văn Bố Điền đuổi, nay đem cả vợ con đến ngụ ở cửa biển Cơ La, ý muốn cầu cứu.” Sự kiện này được Việt sử Lược ghi rõ hơn “Chúa Chiêm Thành là Bố Trì bị chú là Bố Do đuổi, đem hơn 200 chiếc thuyền Bị Lan chở vợ con đến ngụ ở cửa biển Cơ La muốn cầu cứu ta”
 Ngược lại khi người Việt có biến động, vùng đất phía nam vẫn là nơi họ tìm đến “ năm 1103 người Diễn Châu là Lý Giác mưu làm phản… Giác thua trốn sang Chiêm Thành..”
 Hệ quả của mối bang giao thời Lý với hai thế kỷ đi lại gắn bó mật thiết giúp cho hai tộc người hiểu nhau hơn về văn hóa là điều kiện xích lại gần nhau khi có điều kiện
2 Mối quan hệ quân sự.
 Hơn hai thế kỷ dưới vương triều Lý với tư cách một quốc gia độc lập, không ngừng lớn mạnh. Để củng cố nền độc lập, ý trí muốn thống nhất lãnh thổ, song hành với mối quan hệ ngoại giao, vương triều Lý đã từng bước sử dụng sức mạnh để khẳng định vai trò của mình. Từ sự kiện năm 997 “ Chiêm Thành đem quân dòm ngó biên giới nước ta”, khi lên ngôi quản lý đất nước, vương triều Lý đã chú ý đến miền biên viễn phương Nam. Sau khi lên ngôi Lý Công Uẩn  đổi địa giới hành chính 10 đạo thành 24 lộ, châu Hoan , châu Ái  miền biên viễn phía nam làm trại để nới rộng quyền tự chủ cho người quản lý vùng biên. Năm 1036 đặt hành dinh tại Châu Hoan đổi tên châu ấy là Nghệ An. Năm 1041 cho Hoàng tử thứ 8 của Lý Thái Tổ là Uy Minh Hầu Nhật Quang làm tri châu Nghệ An. Điều này cho thấy nhà Lý chú trọng đến vùng đất biên viễn như thế nào.
 Từ những cơ cấu tổ chức hành chính ấy là cơ sở sau này cho các cuộc tiến quân của nhà Lý về phương nam. Năm 1020 sai Khai Thiên Vương Phật Mã và Đào Thạc Phụ đem quân đi đánh Chiêm Thành ở trại Bố Chính. Năm 1044 Lý Thái Tông  thân chinh cầm quân xuống phương nam, người Việt tiến vào vùng đất VịJaya ( Bình Định) quốc đô của Champa. Năm 1069 Lý Thánh Tông  cầm quân đI đánh Chămpa bắt vua nước ấy cùng dân chúng hơn 5 vạn người. Năm 1075 trước khi lập phòng tuyến sông Như Nguyệt chặn cuộc xâm lược của nhà Tống. Lý Thường Kiệt đã đem quân di đánh Chiêm Thành. Năm 1104 Lý Thường Kiệt lại cầm quân đi đánh Chiêm Thành.Năm 1167. Tô Hiến Thành cầm quân đi đánh Chiêm Thành Như vậy theo sử liệu ghi chép vương triều Lý đã 6 lần tiến quân xuống phương nam. Hơn hai trăm năm cầm quyền với 6 lần tiến quân, bình quân trên 30 năm mới có một lần người Việt tiến xuống phía nam.
 Ngược lại theo sử liệu ghi chép kể từ khi vương triều Lý cầm quyền người Chăm có đến  8 cuộc người Chiêm Thành đem quân ra cướp phá biên giới. Năm 1043 tháng 4 giặc sóng gió Chiêm Thành cướp bóc dân ven biển; năm 1068 Chiêm Thành quấy nhiễu biên giới. Năm 1074 Chiêm Thành lại quấy rối biên giới; năm 1104 Vua Chiêm thành là Chế Ma Na đem quân vào cướp, năm 1132 Chiêm thành vào cướp châu Nghệ An; năm 1166 sứ Chiêm thành đi đến miền Ô Lý dùng quân phong thủy mà vượt biển cướp bóc nhân dân ven biển nước ta. Năm 1177 Chiêm thành đến cướp châu Nghệ An. Năm 1218 Chiêm thành đến cướp châu Nghệ An. Các cuộc xung đột biên giới này thường dân đến hệ quả là các cuộc tiến quân  của Đại Việt xuống Champa.
Hệ quả của các cuộc tiến quân là năm 1069 Lý Thánh Tông bắt được vua Chế Củ “ Chế Củ xin dâng 3 châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính để chuộc tội. Vua bằng lòng tha cho Chế Củ về nước”. Lần đầu tiên một phần đất phía nam được hòa nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Đây là  sự sát nhập tự nguyện  trao đổi có điều kiện. Để củng cố quyền quản lý lãnh thổ năm 1075 cùng với việc sai Lý Thường Kiệt tổng lĩnh các quân đI đánh Chiêm Thành… Thường Kiệt bèn họa địa đồ hình thế núi sông của ba châu Địa Lý, Bố Chính, Ma Linh rồi về. Đổi châu Địa Lý làm châu Lâm Bình, châu Ma Linh là châu Minh Linh, chiêu mộ dân chúng đến đấy ở” . Để bảo vệ quyền lãnh thổ này năm 1104 vua Chiêm Thành là Chế Ma Na đem quân vào cướp lại phần đất 3 châu  đã sát nhập, nhà Lý lại cử quân chinh phạt gìn giữ, Chế Ma Na lại dâng nộp đất ấy. Phần quản lý lãnh thổ của vương triều Lý mở đến vùng bắc sông Thạch Hãn ( Quảng Trị ) ngày nay. Đây là bước chuẩn bị ban đầu, điểm tựa vững chắc để nhà nước Đại Việt dần hoàn thành sứ mệnh hòa nhập lãnh thổ sau này.
3. Bước đầu của sự hội nhập - Văn hóa.
Để thực hiện việc hòa nhập nhà Lý đã có những chính sách mềm dẻo dần hòa đồng giữa hai tộc người Việt Chăm trên vùng đât mới .Năm 1025 sau khi tiến vào đất Bố Chính nhà Lý  “Xuống chiếu lập trại Định Phiên ở địa giới phía nam Hoan Châu” để quy tụ người Chăm sinh sống. Năm  1044 Lý Thái Tông  đánh kinh thành bắt sống hơn 5.000 người đưa về Đại Việt cho ở từ trấn Vinh khang ( Nghệ An) đến Đăng châu( Yên Bái – Lào Cai) sinh sống cho các tù binh được nhận người cùng bộ tộc, đặt hương ấp phỏng tên gọi cũ của Chiêm Thành. Đặc biệt hơn một bộ phận người Chăm được nhà Lý  tạo điều kiện cho định cư tại chính trung tâm Thăng Long. Lý Thái Tông khi vào Phật Thệ ( ViJaya) bắt vợ cả vợ lẽ… và các cung nữ giỏi hát múa khúc điệu Tây Thiên đưa về Thăng Long, năm 1046 “ dựng cung riêng cho các cung nữ Chiêm Thành”
 Năm 1045 sau cuộc chinh phạt phương nam, vua Lý chế xe Thái Bình lấy vàng trang sức “ Bồng La nga” tức cái bành voi của Chiêm Thành để kéo. Năm 1060 lại “ Tháng 8 phiên dịch nhạc khúc và điệu đánh trống của Chiêm Thành sai nhạc công ca hát”. Năm 1203  “ Sai nhạc công chế khúc nhạc gọi là nhạc Chiêm Thành, tiếng trong trẻo ai oán buồn rầu, người nghe phải chảy nước mắt”.
                          Bản đồ lãnh thổ Đại Việt thời Lý
( Nguồn theo bản đồ minh họa của Đào Duy Anh : Đất nước Việt Nam qua các thời đại- NXB Thuận Hóa  1996)
Đặc biệt hơn về tinh thần năm 1069 Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, trong số những tù binh bắt được đưa về Thăng Long có một nhà sư Trung Quốc. Là người hâm mộ đạo phật, tiếp thu những giáo lý Phật giáo; Lý Thánh Tông  đã đưa vị sư này về chùa Khai Quốc, phong làm Quốc sư  khai sinh ra phái Thảo đường, một thiền phái của phật giáo vương triều và tự mình  trở thành thế hệ đầu của thiền phái này.. Thiền phái Thảo đường duy trì được 5 thế hệ trong đó có 3 vị vua tham gia ( Lý Anh Tông thế hệ thứ ba;  Lý Cao Tông thế hệ thứ năm) cùng nhiều vị quan lại đại thần trong triều như Tham chính Ngô Ích ( thế hệ thứ hai); Thái phó Đỗ  Anh Vũ(thế hệ thứ  ba); thái phó Đỗ Thường ( thế hệ thứ tư) và Quản giáp Nguyễn Thức ( thế hệ thứ năm).
Hệ quả của việc giao lưu tộc người và văn hóa  là bước đầu văn hóa Việt tiếp nhận và chọn lọc  đưa những giá trị văn hóa tinh thần từ văn hóa Chăm vào tham gia thành tố văn hóa Việt, mà trong đó Thăng Long là nơi hội tụ kết tinh.
III Nh÷ng chøng cø lÞch sö.
Từ những tư liệu lịch sử, trong nhiều năm gần đây, việc nghiên cứu tìm hiểu mối giao lưu văn hóa giữa hai tộc người Việt – Chăm được quan tâm những bằng chứng vật chất ban đầu dần  được tiếp cận.
Trước hết về những nhân vật lịch sử thời Lý, theo tư liệu lịch sử nhà Lý rất coi trọng quản lý vùng đất biên viễn phương nam, cụ thể năm  1041 cho Hoàng tử thứ 8 của Lý Thái Tổ là Uy Minh Hầu Nhật Quang làm tri châu Nghệ An “ Trao Tiết Việt trấn thủ châu ấy”. Được toàn quyền quyết định chính sách. Ông là một hoàng tộc tài ba, ông tổ chức thu tô hàng năm, lập trại Bà Hòa, khiến cho trấn ấy được vững chắc, lại đặt điểm canh các nơi cất chứa lương thực đầy đủ cái gì cũng vừa ý vua và được phong tước vương.  Sau này  khi nhà Lý sát nhập lãnh thổ, ông lại là người đứng đầu sóng ngọn gió  tổ chức bảo vệ vùng đất mới. Uy vọng của ông được người dân vùng đất ghi nhớ, hiện nay đền thờ ông có mặt nhiều nơi trên vùng đất Quảng Bình và xa hơn là tại đền Tam Tòa ( Nhơn Hải – Quy Nhơn – Bình Định) Theo sử liệu cho biết khi các bộ lạc Chiêm làm phản, để ổn định tình hình Nhà Lý phải cử Oai Minh Vương vị hoàng tử nhiều tài năng trấn trị phương Nam đưa quân vào giúp đỡ Champa mà người Chăm sau này dựng đền thờ ghi công tại Tam toà ven cảng Thi Nại “Đền Uy Minh Vương có tên nữa là đền thần núi Tam Toà, ở cửa biển Thi Nại.Thần họ Lý huý là Nhật Quang, con thứ tám của Lý Thái Tôn được phong UY Minh Vương, coi phủ Nghệ An có chính tích tốt,nhân dân mến phục.Bấy giờ có bộ lạc Chiêm Thành làm phản,vua Chiêm Thành cầu viện,quân của vương đóng ở dưới núi Tam Toà,vua Chiêm thành đón rước.Bộ lạc ChiêmThành được tin đều đến cửa quân sụp lạy và cam đoan xin theo lệnh vua Chiêm,không dám hai lòng.Vương đem quân về, người Chiêm Thành nhớ công đức bèn lập đền thờ ở dưới núi Tam Toà…”. Những cuộc điều tra khảo cổ học hiện nay trên đất Quảng Bình đã tìm được nhiều hiện vật thời Lý trên vùng đất. Những chiếc bát thời Lý men ngọc ( Celadon) tìm được trên vùng núi Tuyên Hóa đã cho thấy sự ảnh hưởng của văn hóa Lý đến vùng đất. Đặc biệt hơn những cuộc khai quật khảo cổ học các phế tích  tháp Champa tại Trung Quán, Đại Hữu đều cho thấy các tháp này có niên đại xây dựng trước thế kỷ thứ X. Điều này góp phần khẳng định thế kỷ XI vùng đất này đã thuộc quyền quản lý của người Việt

Bát men ngọc thời Lý tìm được ở Quảng Bình Khác với người Việt, trong 1000 năm bền bỉ gìn giữ văn hóa dân tộc sau thế kỷ X, văn hóa dân tộc mới có điều kiện phát triển, tộc người Chăm đã có điều kiện xây dựng nền văn hóa của dân tộc, tạo nên một nền văn hóa phong phú “ cao đẹp không thua bất kỳ một nền văn hóa  nào ở các nước đông nam á thời trung cổ”  mà đỉnh cao của nó vào thế kỷ X với phong cách nghệ thuật Mỹ Sơn A1 trong kiến trúc và phong cách Trà Kiệu trong điêu khắc. Chính thời gian đó người Việt đã tiếp xúc với đỉnh cao nền văn hóa này qua các cuộc viếng thăm  chính thức và “không chính thức”. Vẻ đẹp kỳ diễm của các công trình kiến trúc; sự sang trọng tinh tế của các tác phẩm điêu khắc, sự mê hoặc của các điệu vũ công, sự mượt mà của câu ca giọng hát đã thu hút sự quan tâm của nhiều tầng lớp xã hội từ vua quan đến thường dân. Những cuộc thăm đất nước Champa “ không chính thức” đã đưa hàng ngàn người dân Chăm về sinh sống trên Đại Việt từ Nghệ An cho đến Yên Bái – Lao cai. Những người dân Chăm đến sinh sống có nhiều tầng lớp, người theo tôn giáo, cung nhân, thợ thủ công. Đến sống trên vùng đất mới được quy tụ theo bộ tộc hương ấp, văn hóa Champa lại có điều kiện tồn tại trong lòng nền văn hóa Việt. Tại Hà Nội cho đến nay còn nhiều làng gốc người Chăm cũ như thôn Bà Già ( Từ Liêm – Hà Nội) vùng ven đất Thăng Long.Nếp sống của người Chăm hòa lẫn vào văn hóa Việt. Đặc biệt trong các công trình kiến trúc tôn giáo có tính chất quốc gia  xây dựng thời Lý như chùa Phật Tích (Bắc Ninh) Tháp Chương Sơn ( Nam Hà); tháp Tường Long ( Hải Phòng); đền thờ Bà Tấm ( Hà Nội) tài liệu thu được qua khai quật khảo cổ học tìm được nhiều hiện vật trang trí mang dáng dấp nghệ thuật Champa, tượng Kisna, tượng Khỉ, tượng Sư Tử vv… hay các tượng đát nung Garuda, các lá đề đất nung trang trí. Điều nhận thấy tương đồng khi thời Lý tiếp xúc với văn hóa Champa tại ViJaya ( Bình Định) các kiến trúc Champa được xây dựng trên các ngọn đồi cao thì các công trình kiến trúc thời Lý cũng lựa chọn địa điểm các đồi cao để xây dựng các kiến trúc Phật giáo của mình. Có nhà nghiên cứu nhận xét các công trình xây dựng này có nhiều nét văn hóa Chăm, có thể do các thợ thủ công người Chăm tham gia xây dựng. Gần đây trong cuộc khai quật khảo cổ học tại 18 Hoàng Diệu còn tìm thấy một viên gạch viết chữ Chăm trong lòng đất. Những tư liệu này cho thấy  thời Lý qua các mối quan hệ đa chiều, văn hóa Champa đa góp mặt vào văn hóa Đại Việt. Ngược lại khi nghiên cứu các di tích văn hóa Chămpa dấu vết văn hóa Đại Việt cũng xuất hiện phảng phất trong các công trình kiến trúc. Phù điêu trang trí Makara tháp Đôi ( Bình Định) có thân mình uốn lượn hình sin đều đặn, trơn nhẵn mang dáng dấp của thân con rồng thời Lý.  Dù còn ít ỏi, nhưng có thể thấy văn hóa Đại Việt – Champa có mối quan hệ khá đa chiều, bình đẳng tiếp thu ảnh hưởng lẫn nhau, đó cũng là thể hiện tính chất một xã hội hòa đồng thời Lý.
 Những tài liệu trên cho thấy mối quan hệ Đại Việt – Champa diễn ra hơn hai thế kỷ dưới vương triều Lý, trước hết dựa trên nền tảng hai tộc người cùng sống chung trên dải đất, có mối quan hệ mật thiết với nhau từ trong cội nguồn lịch sử. Khi có điều kiện, triều Lý độc lập tự chủ thì mối quan hệ này được nâng lên một tầm cao mới. Mối quan hệ đó thể hiện đa chiều, thường xuyên rộng khắp trên các lĩnh vực, là nguồn gốc cơ sở để hai tộc người dần từng bước hội nhập với nhau trên một nền văn hóa . Quan hệ Đại Việt – Champa dưới vương triều Lý đặt nền móng mở đầu cho việc hòa nhập lãnh thổ, hội nhập văn hóa tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc đa dạng tỏa sáng trong lịch sử./.