DƯỚI VƯƠNG TRIỀU LÝ
Năm 1010 vương triều Lý chính thức được
xác lập với sự lên ngôi của Lý Công Uẩn.
Bước ngoặt lịch sử là việc Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Sử
cũ chép “ Mùa thu tháng bảy, vua từ thành Hoa Lư, dời đô ra kinh phủ ở thành Đại
La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi
tên thành gọi là thành Thăng Long” Lý Công Uẩn đã chọn vùng đất “… ở giữa khu vực
đất trời, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi
núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa,
dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tốt tươi phồn thịnh. Xem
khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ hội tụ quan yếu của bốn phương,
đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời”. Sự chuyển đô này đã đánh dấu một thời kỳ mới,
tạo tiền đề cho một thời kỳ phát triển rực rỡ của văn hóa Đại Việt, khẳng định
bản lĩnh dân tộc. Vương triều Lý tồn tại trên 200 năm ( 1010 – 1225) với nhiều
thành tựu hội tụ, phát triển tinh hoa văn hóa của cả dân tộc trong một thời kỳ lịch sử, trong những đóng
góp đó có sự góp mặt của các nền văn hóa từ những tộc người anh em, trong đó có dân tộc Chăm, một
tộc người sinh sống quản lý trên dải đất phương nam
I Những tiền đề mối quan hệ Việt Chăm trong lịch sử.
Theo các nguồn sử liệu, người Chăm là
một tộc người sinh sống chủ yếu trên vùng đất Trung bộ hiện nay kéo dài từ Quảng
Bình tới Bình Thuận. Do điều kiện lịch sử, sau nhiều lần nổi dậy chống sự đô hộ
của người Hán, từ cuối thế kỷ II (năm 192),
người Chăm đã giành được độc lập, thành lập một quốc gia tự chủ mà sử liệu
gọi là Lâm Ấp. Trong đêm trường tăm tối1000
năm dưới sự đô hộ của các triều đại
phong kiến phương bắc và bền bỉ gìn giữ bản sắc văn hóa chống đồng hóa của
người Việt thì người Chăm đã xây dựng một nền văn hóa riêng mang đậm bản sắc của
tộc người và tỏa sáng trên vùng đất đông Nam á. Mặc có sự khác nhau, nhưng cùng
sinh sống trên dải đất, có mối quan hệ lâu đời trong lịch sử, người Việt và người
Chăm đã có giao lưu văn hóa mật thiết với nhau. Những trống đồng sản phẩm văn
hóa đặc trưng của người Việt có mặt trên suốt dải đất người Chăm sinh sống như phát hiện được tại Ba Đồn; Quảng Trạch ( Quảng
Bình) Phong Thu ( Thừa Thiên Huế) hay xa hơn tại Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định,
Khánh Hòa đã nói lên điều đó. Trong thời
kỳ lịch sử, khi giành được độc lập, người Chăm luôn luôn tìm cách tiến ra bắc, ủng
hộ các cuộc khởi nghĩa của người Việt, khiến bọn quan lại đô hộ Trung Hoa phải
luôn luôn tìm cách đánh dẹp. Các cuộc chiến điển hình của Đan Hòa Chi ( năm
446); Lưu Phương ( năm 605) đã nói lên điều đó. Bước sang thế kỷ X sau năm 938
người Việt giành được độc lập, xây dựng quốc gia tự chủ thì mối quan hệ Việt –
Chăm chuyển sang một bước mới thân thiện và từng bước hòa nhập. Mối quan hệ
thân thiện đó thể hiện sự đan xen giữa
người Việt và Chăm. Dưới triều vua Đinh, Phò mã Nhật Khánh “ đem cả vợ con chạy
sang Chiêm Thành”; khi Tiên Hoàng chết “ Phò mã Ngô Nhật Khánh dẫn thuyền quân
Chiêm Thành hơn nghìn chiếc cướp muốn đánh thành Hoa Lư…” “ Nhật Khánh là con
cháu của Ngô tiên chúa Quyền, trước xưng là An vương cùng 12 sứ quân mỗi người
chiếm giữ một vùng ”.Dưới triều Lê Đại Hành năm 982 đã cử sứ giả sang giao hảo.
Mối bang giao thất bại, khiến cuộc chiến đầu tiên người Việt tiến vào kinh đô
Chămpa tại Indrappura (Đồng Dương- Quảng
Nam) với tư cách là đội quân một quốc gia độc lập. Sau trận chiến này, Quản
giáp Lưu Kế Tông một vị tướng của Lê Hoàn đã trốn ở lại..Năm 989 “ Quản Giáp Dương
Tiến Lộc đem hai châu Hoan Ái, xin phụ
Chiêm Thành.”. Năm 1005 trong khi tranh giành quyền lực “Đông Thành vương thua
chạy vào Chiêm Thành bị giết chết”. Đông Thành Vương là Long Tích con vua Lê Đại
Hành, cùng Trung Tông vương (Long Việt) Trung Quốc vương ( Long Kính) Khai Minh
Vương ( Long Đĩnh) tranh giành ngôi sau khi
vua Lê Đại Hành chết.
Ngược lại, mối thân thiện ấy còn thể hiện nhà
Lê thu nhận người Chăm làm dân Đại Việt: năm 986 người Chiêm Thành là Bồ La
Át đem hơn trăm người họ xin nội phụ” hay
trao trả những người Chăm sang sinh sống ở Đại Việt về quê cũ; năm 992 “ Mùa hạ cho người Chiêm Thành nhận lĩnh
hơn 360 người ở thành cũ châu Địa Lý đem về châu Ô Lý” và Triều đình Đại Việt độc
lập là chỗ dựa tin cậy cho người Chăm. Năm 994 “ Cháu vua nước Chiêm Thành là
Chế Cai vào chầu”.. Như vậy có thể thấy, mối quan hệ bang giao Việt Chiêm trong
lịch sử là mối quan hệ lâu đời, thân thiết
gắn bó đa phương, đa diện với nhau, đặc biệt là mỗi khi có sự biến, vùng đất người
Chăm quản lý là nơi nương náu cuối cùng. Điều này khác hẳn,người Việt khi gặp sự
cố không ngược lên phía bắc để dung thân. Đây chính là tiền đề ban đầu cho mối
bang giao Việt – Chăm thời Lý phát triển.
II. Mối quan hệ Đại Việt – Champa dưới
vương triều Lý
Với một vương triều mới thành lập, việc
sử lý công việc biên viễn là một việc khó khăn phức tạp và lâu dài. Cùng với việc
xác lập bảo vệ biên cương phía bắc, vùng biện viễn phía nam cũng được nhà Lý
luôn quan tâm chú trọng. Mối bang giao Việt Chăm dưới vương triều Lý được thể hiện dưới 3 lĩnh
vực: Ngoại giao; quân sự và giao lưu văn
hóa.
1.Quan hệ ngoại giao.
Khi triều Lý lên ngôi, định đô ở Thăng Long mở
đầu mối quan hệ với tư cách của hai vương
triều, năm 1011 người Chăm đã tỏ lòng hữu
hảo bằng cách dâng Sư Tử lên tiến cống, ngay sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi một năm Mối bang giao thân hữu ấy được thể hiện theo
thống kê ghi chép của Việt sử lược, riêng thời Lý, triều đình Champa cử hơn 43 đoàn
sứ bộ sang Đại việt tiến cống sư tử, voi trắng, cá sấu cùng nhiều sản vật địa
phương như tơ lụa, vàng bạc vv... Năm 1198
là năm sứ bộ cuối cùng của Chiêm Thành sang cống nhà Lý và xin cầu Phong. Mật độ
sứ giả bang giao rất nhộn nhịp có giai đoạn 2 năm sai sứ sang Đại Việt một lần
như các năm 1057 đến 1065; hoặc mỗi năm một lần như các năm từ 1081 đến
1089. Nhưng cũng có thời gian bị gián đoạn
từ năm 1050 đến 1055 - 5 năm mới có một đoàn
sứ bộ đến Đại Việt hoặc dưới thời vua Lý Thái Tông “ đến nay đã 16 năm rồi mà
Chiêm Thành chưa từng sai một sứ giả nào sang”.Như vậy có thể thấy bình quân hơn 4 năm lại có một đoàn sứ giả
Chiêm Thành có mặt tại Thăng Long. Các sứ giả đại diện cho người Chăm khi có mặt
tại Thăng long được nhà Lý rất quan tâm đáp lại bằng con đường ngoại giao
khá tế nhị. Năm 1072 “ Tha thuế sợi vải
trắng của Chiêm Thành”; năm 1093 sai “ Hàn Lâm học sĩ Mạc Hiển Tích sang sứ
Chiêm Thành” năm 1118 mở hội Thiên Phật ( nghìn Phật để khánh thành chùa Thắng
Nghiên Thánh Thọ, cho sứ Chiêm Thành đến xem; năm 1126 hội đèn Quảng chiếu ở
Long Trì, xuống chiếu cho sứ Chiêm Thành vào xem; năm 1128 vua Lý lên ngôi sang báo cho Chiêm
Thành; năm 1130 Vua đánh cầu ở Long Trì,
cho sứ nước Chiêm Thành vào hầu xem”;năm 1154 “vua nước Chiêm Thành là Chế Bì
La Bút dâng con gái vua nhận”. Năm 1199 nhà Lý “ Sai sứ sang phong vua nước
Chiêm Thành” vv…
Trong
mối quan hệ này còn nâng cấp mỗi khi có
biến động xã hội, theo truyền thống hai bên là chỗ dựa tin cậy của nhau. Năm
1039 “ Con vua Chiêm Thành là Địa Bà Lạt cùng bọn Lạc Thuẫn; Sạ Đâu; La Kế; A
Thát Lạt 5 người sang quy phụ nước ta”. Năm 1040 “ Mùa thu tháng 8 người giữ trại
Bố Chính của nước Chiêm Thành là Bố Linh; Bố Kha; Lan Đà Tinh đem bộ thuộc hơn
100 người sang quy phụ. Năm 1124 người nước Chiêm Thành là Cụ Ông và 3 người
anh em họ đến chầu, tháng 5 cùng năm, người nước Chiêm Thành là bọn Bă Tư Bồ Đà
La 30 người sang quy phụ. Năm 1130” Tháng 3 người nước Chiêm thành là Ung Ma,
Ung Câu sang quy phụ. Năm 1152 “ người nước Chiêm Thành là Ung Minh Ta Điệp đến
cửa khuyết xin mệnh cho làm vua nước ấy. Xuống chiếu cho Thượng chế Lý Mông đem
hơn 5.000 người ở phủ Thanh Hoa và châu Nghệ An sang Chiêm Thành lập Ung Minh
Ta Điệp làm vua”. Năm 1203 “ Vua nước Chiêm Thành Là Bố Trì bị chú là Văn Bố Điền
đuổi, nay đem cả vợ con đến ngụ ở cửa biển Cơ La, ý muốn cầu cứu.” Sự kiện này được
Việt sử Lược ghi rõ hơn “Chúa Chiêm Thành là Bố Trì bị chú là Bố Do đuổi, đem hơn
200 chiếc thuyền Bị Lan chở vợ con đến ngụ ở cửa biển Cơ La muốn cầu cứu ta”
Ngược lại khi người Việt có biến động, vùng đất
phía nam vẫn là nơi họ tìm đến “ năm 1103 người Diễn Châu là Lý Giác mưu làm phản…
Giác thua trốn sang Chiêm Thành..”
Hệ quả của mối bang giao thời Lý với hai thế kỷ
đi lại gắn bó mật thiết giúp cho hai tộc người hiểu nhau hơn về văn hóa là điều
kiện xích lại gần nhau khi có điều kiện
2
Mối quan hệ quân sự.
Hơn hai thế kỷ dưới vương triều Lý với tư cách
một quốc gia độc lập, không ngừng lớn mạnh. Để củng cố nền độc lập, ý trí muốn
thống nhất lãnh thổ, song hành với mối quan hệ ngoại giao, vương triều Lý đã từng
bước sử dụng sức mạnh để khẳng định vai trò của mình. Từ sự kiện năm 997 “
Chiêm Thành đem quân dòm ngó biên giới nước ta”, khi lên ngôi quản lý đất nước,
vương triều Lý đã chú ý đến miền biên viễn phương Nam. Sau khi lên ngôi Lý Công
Uẩn đổi địa giới hành chính 10 đạo thành
24 lộ, châu Hoan , châu Ái miền biên viễn
phía nam làm trại để nới rộng quyền tự chủ cho người quản lý vùng biên. Năm
1036 đặt hành dinh tại Châu Hoan đổi tên châu ấy là Nghệ An. Năm 1041 cho Hoàng
tử thứ 8 của Lý Thái Tổ là Uy Minh Hầu Nhật Quang làm tri châu Nghệ An. Điều
này cho thấy nhà Lý chú trọng đến vùng đất biên viễn như thế nào.
Từ những cơ cấu tổ chức hành chính ấy là cơ sở
sau này cho các cuộc tiến quân của nhà Lý về phương nam. Năm 1020 sai Khai
Thiên Vương Phật Mã và Đào Thạc Phụ đem quân đi đánh Chiêm Thành ở trại Bố
Chính. Năm 1044 Lý Thái Tông thân chinh cầm
quân xuống phương nam, người Việt tiến vào vùng đất VịJaya ( Bình Định) quốc đô
của Champa. Năm 1069 Lý Thánh Tông cầm
quân đI đánh Chămpa bắt vua nước ấy cùng dân chúng hơn 5 vạn người. Năm 1075 trước
khi lập phòng tuyến sông Như Nguyệt chặn cuộc xâm lược của nhà Tống. Lý Thường
Kiệt đã đem quân di đánh Chiêm Thành. Năm 1104 Lý Thường Kiệt lại cầm quân đi đánh
Chiêm Thành.Năm 1167. Tô Hiến Thành cầm quân đi đánh Chiêm Thành Như vậy theo sử
liệu ghi chép vương triều Lý đã 6 lần tiến quân xuống phương nam. Hơn hai trăm
năm cầm quyền với 6 lần tiến quân, bình quân trên 30 năm mới có một lần người
Việt tiến xuống phía nam.
Ngược lại theo sử liệu ghi chép kể từ khi vương
triều Lý cầm quyền người Chăm có đến 8
cuộc người Chiêm Thành đem quân ra cướp phá biên giới. Năm 1043 tháng 4 giặc
sóng gió Chiêm Thành cướp bóc dân ven biển; năm 1068 Chiêm Thành quấy nhiễu
biên giới. Năm 1074 Chiêm Thành lại quấy rối biên giới; năm 1104 Vua Chiêm
thành là Chế Ma Na đem quân vào cướp, năm 1132 Chiêm thành vào cướp châu Nghệ
An; năm 1166 sứ Chiêm thành đi đến miền Ô Lý dùng quân phong thủy mà vượt biển
cướp bóc nhân dân ven biển nước ta. Năm 1177 Chiêm thành đến cướp châu Nghệ An.
Năm 1218 Chiêm thành đến cướp châu Nghệ An. Các cuộc xung đột biên giới này thường
dân đến hệ quả là các cuộc tiến quân của
Đại Việt xuống Champa.
Hệ
quả của các cuộc tiến quân là năm 1069 Lý Thánh Tông bắt được vua Chế Củ “ Chế
Củ xin dâng 3 châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính để chuộc tội. Vua bằng lòng tha
cho Chế Củ về nước”. Lần đầu tiên một phần đất phía nam được hòa nhập vào lãnh
thổ Đại Việt. Đây là sự sát nhập tự nguyện trao đổi có điều kiện. Để củng cố quyền quản
lý lãnh thổ năm 1075 cùng với việc sai Lý Thường Kiệt tổng lĩnh các quân đI đánh
Chiêm Thành… Thường Kiệt bèn họa địa đồ hình thế núi sông của ba châu Địa Lý, Bố
Chính, Ma Linh rồi về. Đổi châu Địa Lý làm châu Lâm Bình, châu Ma Linh là châu
Minh Linh, chiêu mộ dân chúng đến đấy ở” . Để bảo vệ quyền lãnh thổ này năm
1104 vua Chiêm Thành là Chế Ma Na đem quân vào cướp lại phần đất 3 châu đã sát nhập, nhà Lý lại cử quân chinh phạt
gìn giữ, Chế Ma Na lại dâng nộp đất ấy. Phần quản lý lãnh thổ của vương triều
Lý mở đến vùng bắc sông Thạch Hãn ( Quảng Trị ) ngày nay. Đây là bước chuẩn bị
ban đầu, điểm tựa vững chắc để nhà nước Đại Việt dần hoàn thành sứ mệnh hòa nhập
lãnh thổ sau này.
3. Bước đầu của sự hội nhập - Văn hóa.
Để
thực hiện việc hòa nhập nhà Lý đã có những chính sách mềm dẻo dần hòa đồng giữa
hai tộc người Việt Chăm trên vùng đât mới .Năm 1025 sau khi tiến vào đất Bố
Chính nhà Lý “Xuống chiếu lập trại Định
Phiên ở địa giới phía nam Hoan Châu” để quy tụ người Chăm sinh sống. Năm 1044 Lý Thái Tông đánh kinh thành bắt sống hơn 5.000 người đưa
về Đại Việt cho ở từ trấn Vinh khang ( Nghệ An) đến Đăng châu( Yên Bái – Lào
Cai) sinh sống cho các tù binh được nhận người cùng bộ tộc, đặt hương ấp phỏng
tên gọi cũ của Chiêm Thành. Đặc biệt hơn một bộ phận người Chăm được nhà
Lý tạo điều kiện cho định cư tại chính
trung tâm Thăng Long. Lý Thái Tông khi vào Phật Thệ ( ViJaya) bắt vợ cả vợ lẽ…
và các cung nữ giỏi hát múa khúc điệu Tây Thiên đưa về Thăng Long, năm 1046 “ dựng
cung riêng cho các cung nữ Chiêm Thành”
Năm 1045 sau cuộc chinh phạt phương nam, vua
Lý chế xe Thái Bình lấy vàng trang sức “ Bồng La nga” tức cái bành voi của
Chiêm Thành để kéo. Năm 1060 lại “ Tháng 8 phiên dịch nhạc khúc và điệu đánh trống
của Chiêm Thành sai nhạc công ca hát”. Năm 1203
“ Sai nhạc công chế khúc nhạc gọi là nhạc Chiêm Thành, tiếng trong trẻo
ai oán buồn rầu, người nghe phải chảy nước mắt”.
Bản đồ lãnh thổ Đại
Việt thời Lý
( Nguồn theo bản đồ minh họa của Đào
Duy Anh : Đất nước Việt Nam qua các thời đại- NXB Thuận Hóa 1996)
Đặc biệt hơn về tinh thần năm 1069 Lý
Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, trong số những tù binh bắt được đưa
về Thăng Long có một nhà sư Trung Quốc. Là người hâm mộ đạo phật, tiếp thu những
giáo lý Phật giáo; Lý Thánh Tông đã đưa
vị sư này về chùa Khai Quốc, phong làm Quốc sư
khai sinh ra phái Thảo đường, một thiền phái của phật giáo vương triều
và tự mình trở thành thế hệ đầu của thiền
phái này.. Thiền phái Thảo đường duy trì được 5 thế hệ trong đó có 3 vị vua
tham gia ( Lý Anh Tông thế hệ thứ ba; Lý
Cao Tông thế hệ thứ năm) cùng nhiều vị quan lại đại thần trong triều như Tham
chính Ngô Ích ( thế hệ thứ hai); Thái phó Đỗ
Anh Vũ(thế hệ thứ ba); thái phó Đỗ
Thường ( thế hệ thứ tư) và Quản giáp Nguyễn Thức ( thế hệ thứ năm).
Hệ quả của việc giao lưu tộc người và
văn hóa là bước đầu văn hóa Việt tiếp nhận
và chọn lọc đưa những giá trị văn hóa
tinh thần từ văn hóa Chăm vào tham gia thành tố văn hóa Việt, mà trong đó Thăng
Long là nơi hội tụ kết tinh.
III Nh÷ng chøng cø lÞch sö.
Từ những tư liệu lịch sử, trong nhiều
năm gần đây, việc nghiên cứu tìm hiểu mối giao lưu văn hóa giữa hai tộc người
Việt – Chăm được quan tâm những bằng chứng vật chất ban đầu dần được tiếp cận.
Trước hết về những nhân vật lịch sử thời Lý, theo tư liệu lịch sử nhà Lý rất coi trọng quản lý vùng đất biên viễn phương nam, cụ thể năm 1041 cho Hoàng tử thứ 8 của Lý Thái Tổ là Uy Minh Hầu Nhật Quang làm tri châu Nghệ An “ Trao Tiết Việt trấn thủ châu ấy”. Được toàn quyền quyết định chính sách. Ông là một hoàng tộc tài ba, ông tổ chức thu tô hàng năm, lập trại Bà Hòa, khiến cho trấn ấy được vững chắc, lại đặt điểm canh các nơi cất chứa lương thực đầy đủ cái gì cũng vừa ý vua và được phong tước vương. Sau này khi nhà Lý sát nhập lãnh thổ, ông lại là người đứng đầu sóng ngọn gió tổ chức bảo vệ vùng đất mới. Uy vọng của ông được người dân vùng đất ghi nhớ, hiện nay đền thờ ông có mặt nhiều nơi trên vùng đất Quảng Bình và xa hơn là tại đền Tam Tòa ( Nhơn Hải – Quy Nhơn – Bình Định) Theo sử liệu cho biết khi các bộ lạc Chiêm làm phản, để ổn định tình hình Nhà Lý phải cử Oai Minh Vương vị hoàng tử nhiều tài năng trấn trị phương Nam đưa quân vào giúp đỡ Champa mà người Chăm sau này dựng đền thờ ghi công tại Tam toà ven cảng Thi Nại “Đền Uy Minh Vương có tên nữa là đền thần núi Tam Toà, ở cửa biển Thi Nại.Thần họ Lý huý là Nhật Quang, con thứ tám của Lý Thái Tôn được phong UY Minh Vương, coi phủ Nghệ An có chính tích tốt,nhân dân mến phục.Bấy giờ có bộ lạc Chiêm Thành làm phản,vua Chiêm Thành cầu viện,quân của vương đóng ở dưới núi Tam Toà,vua Chiêm thành đón rước.Bộ lạc ChiêmThành được tin đều đến cửa quân sụp lạy và cam đoan xin theo lệnh vua Chiêm,không dám hai lòng.Vương đem quân về, người Chiêm Thành nhớ công đức bèn lập đền thờ ở dưới núi Tam Toà…”. Những cuộc điều tra khảo cổ học hiện nay trên đất Quảng Bình đã tìm được nhiều hiện vật thời Lý trên vùng đất. Những chiếc bát thời Lý men ngọc ( Celadon) tìm được trên vùng núi Tuyên Hóa đã cho thấy sự ảnh hưởng của văn hóa Lý đến vùng đất. Đặc biệt hơn những cuộc khai quật khảo cổ học các phế tích tháp Champa tại Trung Quán, Đại Hữu đều cho thấy các tháp này có niên đại xây dựng trước thế kỷ thứ X. Điều này góp phần khẳng định thế kỷ XI vùng đất này đã thuộc quyền quản lý của người Việt
Trước hết về những nhân vật lịch sử thời Lý, theo tư liệu lịch sử nhà Lý rất coi trọng quản lý vùng đất biên viễn phương nam, cụ thể năm 1041 cho Hoàng tử thứ 8 của Lý Thái Tổ là Uy Minh Hầu Nhật Quang làm tri châu Nghệ An “ Trao Tiết Việt trấn thủ châu ấy”. Được toàn quyền quyết định chính sách. Ông là một hoàng tộc tài ba, ông tổ chức thu tô hàng năm, lập trại Bà Hòa, khiến cho trấn ấy được vững chắc, lại đặt điểm canh các nơi cất chứa lương thực đầy đủ cái gì cũng vừa ý vua và được phong tước vương. Sau này khi nhà Lý sát nhập lãnh thổ, ông lại là người đứng đầu sóng ngọn gió tổ chức bảo vệ vùng đất mới. Uy vọng của ông được người dân vùng đất ghi nhớ, hiện nay đền thờ ông có mặt nhiều nơi trên vùng đất Quảng Bình và xa hơn là tại đền Tam Tòa ( Nhơn Hải – Quy Nhơn – Bình Định) Theo sử liệu cho biết khi các bộ lạc Chiêm làm phản, để ổn định tình hình Nhà Lý phải cử Oai Minh Vương vị hoàng tử nhiều tài năng trấn trị phương Nam đưa quân vào giúp đỡ Champa mà người Chăm sau này dựng đền thờ ghi công tại Tam toà ven cảng Thi Nại “Đền Uy Minh Vương có tên nữa là đền thần núi Tam Toà, ở cửa biển Thi Nại.Thần họ Lý huý là Nhật Quang, con thứ tám của Lý Thái Tôn được phong UY Minh Vương, coi phủ Nghệ An có chính tích tốt,nhân dân mến phục.Bấy giờ có bộ lạc Chiêm Thành làm phản,vua Chiêm Thành cầu viện,quân của vương đóng ở dưới núi Tam Toà,vua Chiêm thành đón rước.Bộ lạc ChiêmThành được tin đều đến cửa quân sụp lạy và cam đoan xin theo lệnh vua Chiêm,không dám hai lòng.Vương đem quân về, người Chiêm Thành nhớ công đức bèn lập đền thờ ở dưới núi Tam Toà…”. Những cuộc điều tra khảo cổ học hiện nay trên đất Quảng Bình đã tìm được nhiều hiện vật thời Lý trên vùng đất. Những chiếc bát thời Lý men ngọc ( Celadon) tìm được trên vùng núi Tuyên Hóa đã cho thấy sự ảnh hưởng của văn hóa Lý đến vùng đất. Đặc biệt hơn những cuộc khai quật khảo cổ học các phế tích tháp Champa tại Trung Quán, Đại Hữu đều cho thấy các tháp này có niên đại xây dựng trước thế kỷ thứ X. Điều này góp phần khẳng định thế kỷ XI vùng đất này đã thuộc quyền quản lý của người Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét