XỨ BẮC-
VÙNG VĂN HÓA THĂNG LONG TỎA SÁNG
Bắc Ninh – Bắc Giang, vùng đất cổ
ngàn xưa nằm ở phía bắc sông Hồng – dòng
sông Mẹ- tạo nên diện mạo đồng bằng châu thổ Bắc Bộ, vùng đất phên dậu của
trung tâm đồng bằng bắc bộ, từ trong lịch sử đã trở thành một vùng đất kết tinh
văn hóa của dân tộc, đặc biệt hơn khi dân tộc giành được độc lập, nhà Lý chuyển
kinh đô về Thăng Long, vùng đất này có vai trò trọng yếu là tấm lá
chắn trong việc gìn giữ nền độc lập và phát triển kinh tế văn hóa của dân tộc. Thời
kỳ nhà Lý, được mở đầu là Lý Công Uẩn và kết thúc là Lý Chiêu Hoàng ( 1010
-1225). Năm 1010, sau một thời gian dài trải qua hai triều đại Đinh – Tiền Lê nền độc
lập tự chủ của dân tộc giành được và củng cố vững chắc, trước điều kiện phát
triển mới của dân tộc; Lý Công Uẩn cho dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng
Long, đánh dấu một kỷ nguyên mới của dân tộc. Với vị thế địa lý của miền đất, Bắc Ninh -Bắc Giang trở thành phên
dậu phía bắc của vùng đất kinh đô, đặc biệt vùng đất Bắc Ninh, nơi phát tích của
nhà Lý được coi là đất thang mộc của vương
triều, đã có mối quan hệ mật thiết với trung tâm kinh tế văn hóa chính trị của
dân tộc, mở ra một thời kỳ mới của Bắc Ninh- Bắc giang trong lịch sử và văn hóa
dân tộc. Cùng với Thăng Long, thời kỳ nhà Lý nhiều công trình kiến trúc tôn
giáo được chú trọng xây dựng tại đây. Do vị thế đất vùng lá chắn kinh đô; chính
vì thế các cuộc chiến tranh từ phương bắc, cùng với điều kiện tự nhiên khốc liệt;
các biến động của xã hội cho nên cho đến nay nhiều công trình kiến trúc, các
tác phẩm điêu khắc đá mà sử liệu ghi chép cho đến hiện nay không còn.
I. Một
vài ghi chép trong lịch sử
Năm
1010 Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long, để tri ân với quê hương sinh thành, việc
đầu tiên ông “ đổi châu Cổ Pháp gọi là Phủ Thiên Đức...sông Bắc Giang gọi là
sông Thiên Đức. Xuống chiếu phát tiền kho 2 vạn quan thuê thợ làm chùa ở Phủ
Thiên Đức, tất cả 8 sở đều dựng bia ghi công”(1)
Cuộc cải
cách hành chính đầu tiên của vương triều mới trên đất Thăng Long là cải
cách hành chính , “ Đổi 10 đạo làm 24 lộ,
châu Hoan, châu Ái làm trại”(2)
(1-2) Đại
Việt sử ký toàn thư- NXBKHXH 2004; tr 241-242
Vậy
trong 24 lộ, vùng xứ Bắc là một đơn vị hành chính Lộ- Lộ Bắc Giang bao gồm vùng
đất phía bắc sông Cái ( sông Hồng) gồm đất Bắc Ninh – Bắc Giang ngày nay, “ lộ
Bắc Giang thì tương đương với lộ Bắc Giang thời Trần, là miền Hà Bắc” (1); nhưng
có lẽ phủ Thiên Đức được triều đình trực tiếp quản lý. Lộ Bắc Giang trở thành
phiên dậu phía bắc và có mối quan hệ mật thiết đa chiều với kinh đô Thăng Long
và vùng đất phát tích vương triều- Phủ Thiên Đức. Để bảo vệ kinh đô Thăng Long
về phía Bắc, nhà Lý đặc biệt chú trọng vùng đất này. Năm 1027 “ Xuống chiếu cho
Khai thiên vương ( Phật Mã) đi đánh châu Thất Nguyên, Đông Chinh Vương ( Lực) đi
đánh văn châu”(2) dẹp nạn cát cứ. Thắt chặt, ràng buộc và nắm giữ vùng đất phía Bắc các vua nhà Lý
thực hiện gả công chúa cho tù
trưởng có thế lực quản lý vùng đất (3), thực hiện mối quan hệ thông gia bền chặt,biến
vùng đất này làm quê cháu con phên dậu.
Tháng 7 năm 1029 vua Lý Thái Tông gả công chúa Bình Dương cho châu mục Lạng
Châu là Thân Thiệu Thái(4). Đây là dòng họ lớn, quản lý vùng đất nhiều đời có thế
lực tại địa phương. Sự tin cậy thể hiện qua các cuộc viếng thăm của các vua triều
Lý đến vùng đất. Tháng 9 năm 1032 “ vua đi châu Lạng bắt voi, rồi từ châu Lạng
trở về”( 5). Từ nền tảng ban đầu, các
triều vua Lý đều gắn bó với vùng đất. Sử cũ ghi lại:
Tháng 3
năm 1059 Lý Thánh Tông. “ vua đi săn ở vùng sông Nam Bình thuộc Lạng châu, nhân
đó ngự đến nhà phò Mã Thân Cảnh Nguyên”(6). Năm 1066 “Con trai công chúa Bình Dương
là Thân Đạo Nguyên lấy công chúa Thiên Thành ” (7) con vua Lý Thánh Tông.
(1) Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam
qua các thời.NXB Thuận Hóa 1998 tr 118.
(2)Đại
Việt sử ký toàn thư- NXBKHXH 2004; tr 247. Sách có chú thích hai châu này thuộc
huyện Tràng Định, Văn Quan và một phần Văn Lăng ( Lạng Sơn) ngày nay.
(3)Theo
một số tài liệu cho biết từ thời Lý Công
Uẩn đã gả công chúa cho Giáp Thừa Quý châu mục châu Lạng châu. Tham khảo
thêm:Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt Lịch sử ngoại giao và tông giáo thời Lý.
NXB Quân đội nhân dân – 2003. Di sản văn hóa Bắc Giang: Khảo cổ học từ tiền sử đến
Lịch sử. Bảo tàng Bắc Giang 2008.
(4)Đại
Việt sử ký toàn thư- NXBKHXH 2004; tr 253; Việt sử lược.NXB Thuận Hóa 2005tr
81.
(5) Đại
Việt sử ký toàn thư- NXBKHXH 2004; tr 255
(6)Việt
sử lược NXB Thuận Hóa 2005 . tr 91
(7)Việt
sử lược NXB Thuận Hóa 2005 . tr 91
Năm
1072 “ Châu mục Lạng châu là Dương Cảnh Thông dâng con hươi trắng. Quần thần
dâng biểu chúc mừng. Cho Dương Cảnh Thông làm thái Bảo”(1). Năm 1079 Lạng châu
dâng voi trắng... công chúa Thiên Thành dâng con rùa 6 mắt 3 chân.” (2).Năm
1091 “ tháng 2 vua ngự lên châu Lạng xem bắt voi”(3). Năm 1106 “ Công chúa
Thiên Thành dâng 2 voi trắng”(4).Năm 1147” “ tháng 11 làm nhà cho công chúa Thụy
Thiên ở châu Lạng”(5). Năm 1148 Công chúa Thụy Thiên về châu Lạng(6). Năm 1149
tháng 11 công chúa Thiên Thành mất”(7). Năm 1167 “ công chúa Thiên cực gả về
cho châu mục lạng châu là Hoài Trung Hầu” ( 8) . Ghi chép trên cho thấy trên
200 năm từ khi khởi dựng, nhà Lý luôn quan tâm gắn bó với vùng đất phương bắc.
Chắt lọc tài liệu cho thấy, vùng đất này có hai dòng họ lớn: họ Dương và họ
Giáp sau đổi là họ Thân. Họ Dương có người được thăng chức Thái Bảo- một trong
3 vị trí cao nhất của hệ thống quan lại. Đặc biệt là họ Thân có đến 3 đời làm
phò mã vương triều Lý với các cặp được biết rõ :
- Công
chúa Bình Dương – Thân Thiệu Thái( năm 1029)
- Công
chúa Thiên Thành - Thân Đạo Nguyên ( năm
1066)
Công chúa Thiên Cực – Hoài Trung Hầu ( chưa rõ
tên- năm1167)
Ngoài ra, năm 1059 có phò mã Thân Cảnh
Nguyên.Phò mã Thân Cảnh Nguyên theo năm tháng, năm 1029 công chúa Bình Dương lấy
Thân Thiệu Thái thì 30 năm sau ( 1059)
xuất hiện vị phò mã này, có lẽ đây là con của Thân Thiệu Thái lấy công
chúa nhà Lý nên sử không ghi và 7 năm sau ( 1066)Thân Đạo Nguyên con của công
chúa Bình Dương lấy công chúa Thiên Thành con vua Lý Thánh Tông mới được sử ghi
lại. Đây có lẽ là hai anh em con Thân Thiệu Thái.Công chúa Thiên Cực là con vua
Lý Anh Tông gả cho Hoài Trung Hầu chỉ được ghi chép ở Việt sử lược mà không có
trong Toàn thư. Sự kéo dài của mối quan hệ hôn nhân được sử ghi chép lại từ
1029 đến 1167 là 138 năm, như vậy là chưa đủ có thể còn hơn nữa với mối quan hệ
họ hàng Hoàng tộc nên không được ghi chép. Nhưng 8 đời vua Lý, họ Thân có đến 3
đời làm thông gia, trong đó kéo dài nhất thời gian công chúa Thiên Thành làm
dâu ở đây 83 năm(?)( 1066 – 1149) đã
(1-2-3-4-
8)Việt sử lược NXB Thuận Hóa 2005 . tr 99- 103- 106- 152
(5-6-
7)Đại Việt sử ký toàn thư- NXBKHXH 2004; tr 317. ) )
chứng tỏ
sự ảnh hương của văn hóa thời Lý ở đây. Đây là một vấn đề của lịch sử cần được
tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Bên cạnh mối quan hệ thông gia, vùng đất xứ Bắc cũng
là nơi được hoàng tộc Lý quan tâm, công chúa Thụy Thiên được vua làm nhà năm 1147 và đến ở vào năm1148. Công
chúa Thụy Thiên đến vùng đất do lấy chồng hay mến cảnh yêu người đến cư ngụ. Đây
cũng là vấn đề cần quan tâm, bởi vùng xứ Bắc là nơi Phật giáo khá phát triển rầm
rộ dưới vương triều Lý.
Dù là mối
quan hệ thông gia, hay miền đất được
Hoàng tộc nhà Lý quan tâm đã cho thấy mối quan hệ giữa miền đất và kinh
thành Thăng Long có một chiều dài thẳm sâu trong lịch sử. Mối quan hệ đó đa phương,
đa chiều mật thiết với kinh đô Thăng Long và văn hóa Thăng Long thời Lý hội tụ đủ điều kiện để tỏa sáng trên vùng đất
xứ bắc.
II. Những
dấu tích vật chất
Vùng đất
xứ Bắc với mối quan hệ mật thiết với vương triều Lý và kinh đô Thăng Long,
trong lịch sử có nhiều công trình kiến trúc được xây dựng khá quy mô, hội tụ
nhiều yếu tố văn hóa Lý nhưng cho đến nay,
trải qua thời gian do thiên nhiên cùng những biến động xã hội những di
tích thời Lý trên vùng đất Bắc Giang khá hiếm hoi
1. Những
di tích- di vật.
- Đền
Tòng Lệnh xã Trường Giang huyện Lục Ngạn.
Đền thờ
công chúa Bình Dương- vị công chúa nhà Lý lấy Thân Thiệu Thái- được tôn vinh là
Thánh mẫu. Theo thần tích cho biết khi về đây công chúa Bình Dương có dựng hai
cung An Khánh và cung Bồng Lai. Cung An Khánh thuộc địa bàn thôn Tòng Lệnh.Hiện
nay nơi đây có đền và chùa Tòng Lệnh. Di vật tại chùa Tòng Lệnh hiện còn một
chân tảng đá kích thước đường kính 0,7m, xung quanh chạm khắc hoa văn cánh sen
gồm 24 cánh vây quanh. Đây là hiện vật có thời Lý. Phải chăng bên cạnh cung cư
trú, công chúa nhà Lý đã dựng ngôi chùa
thờ phật bên cạnh, một đặc trưng phật giáo thời Lý mà ngày nay vẫn để lại dấu
tích.
- Tại
thôn Bồng Lai xã Phượng Sơn huyện Lục Ngạn hiện còn để lại một nhóm phế tích kiến
trúc gồm :
Cung Bồng
Lai, theo truyền thuyết đây là cung do công chúa Bình Dương xây dựng khi dời
nhà sang đây.
Chân
tảng( đá) trang trí cánh sen
|
Khảo
sát cho thấy trên địa điểm cung Bồng Lai tìm được một số viên gạch hình vuông
cạnh 0,32m, dày 5cm, mặt được trang trí họa tiết hoa cúc hoa cúc được tạc tỉ
mỉ chau chuốt. Một chân tảng bằng đá trang trí hoa văn cánh sen vây quanh
|
Đền Bồng
Lai tại thôn Bồng Lai xã Phượng Sơn huyện Lục Ngạn. Theo thần tích đây là ngôi đền
thờ viên quan Vũ Tỉnh lấy công chúa nhà Lý, làm quan đến Tả Bộc Xạ, khi mất được
dân dựng đền thờ. Hiện nay di tích vẫn còn.
Đền Cầu Từ, thôn Cầu Từ xã Phượng Sơn huyện Lục
Nam, theo thần tích thờ Vũ Thành con Vũ Tỉnh. Cuộc khai quật tại đây năm 2007 với
30m2 và 36m2 năm 2008 đã tìm được dấu vết kiến trúc được
hiện vật chủ yếu có niên đại thời Lý gồm chân tảng, ngói lợp, đầu ngói ống, đồ
gốm sứ, cho thấy có thể đền được xây dựng sau này trên nền kiến trúc cung thời Lý
ngày xưa(?).
Bên cạnh địa bàn xã Phượng Sơn, điều tra khảo
sát còn cho thấy một số phế tích kiến trúc thời Lý với nhiều hiện vật kiến trúc
trong đó có viên gạch đề ghi “ Lý gia đệ tam đế
Long thụy thái bình tứ niên tạo” vào năm 1057 đời vua Lý Thái Tông- thời
gian công chúa Bình Dương ở đây.
Những
di tích, di vật cho thấy vùng đất này lưu giữ một quần thể kiến trúc thời Lý có
quy mô lớn, phân bố rộng ven hai bờ sông Lục Nam, một vùng đất giàu có trù phú
thuận lợi giao thông với Thăng Long. Những công trình ở đây được xây dựng mang
tính chất cung đình, hiện vật tương đồng với các công trình kiến trúc khác được
xây dựng dưới sự bảo trợ của vương triều như chùa Phật Tích, tháp Chương Sơn, Tường
Long trong lịch sử.
- Cùng
với những kiến trúc cung đình, trên vùng đất xứ Bắc còn nhiều ngôi chùa theo truyền thuyết được xây dựng từ thời
Lý.Theo nội dung xã chí lưu tại đình làng Chể xã Phượng Sơn cho biết cùng sự có
mặt của công chúa Bình Dương, Thiên Thành tại vùng đất còn có các công chúa Thụy
Thiên, An Hòa không lấy chồng, khi đến vùng đất mến mộ đạo phật đã đã dừng
chân tu đạo ở đây. Vua Lý đã cho xây nhà
ở cho các công chúa như sử cũ ghi lại
Chùa Cao xã Khám Lạng huyện Lục Nam là một
chùa nổi tiếng xứ Bắc, chùa được xây dựng
trên vùng đất cao thoáng Theo tài liệu lịch sử cho biết chùa được xây dựng vào
thời Lý, do những biến động của xã hội và can thiệp của tự nhiên cho nên dấu vết chùa xưa không còn. Tại địa điểm
này hiện nay chùa Cao vẫn được duy trì. Trên nền cũ chùa xưa trong quá trình đào
đắp xây dựng phát hiện được nhiều hiện vật
thuộc thời Lý như phù điêu hình lá đề có khắc nổi đôi rồng mào lửa, một con chó
đá, một tượng kiểu Garuda.- Tượng chó đá: tượng làm bằng đá gan gà cứng, cao 34cm,
đế rộng 18 cm tượng đục khắc ở tư thế ngồi.
Trên thân được chạm khắc hoa văn khá tỉ mỉ
Tượng
hình Garuda: tượng làm bằng đá
nhám, gan gà cứng tượng chỉ trạm khắc nửa ngoài, còn nửa trong để thô. đầu tượng
giống như đầu con chim cú mèo, có yếm cổ, trên yếm có vạch ngang. Hai chân chống
thẳng lên đế tượng, khá độc đáo.
Tượng đá
Chùa Cao- Khám Lạng – Lục Nam
Cuộc điều tra năm 1989 đã tìm được ở đây nhiều
hiện vật thời Lý với các chất liệu khác nhau. Điêu khắc đá hình thủy ba nhiều lớp
nhô lên uốn mềm mại hay lá đề chạm khắc hình rồng uốn đối xứng nhau. Kích thước
lá đề: cao 0,29m, rộng 0,32m, dày 6,5cm.- Hoa văn trang trí: Lưỡng rồng chầu mặt
trời, cân xứng. Miệng rồng ngậm ngọc, thân uốn lượn hình sin. Chân có 3 móng vuốt.
Diềm lá đề trang trí hình xoáy ốc.
Lá đề ( đá) trang
trí hình rồng
|
Diềm
chân( đá) trang trí Thủy Ba
|
Phiến
đá có lỗ mộng: được làm từ đá cát hạt mịn mầu nâu thẫm, chắc là những cấu kiện trong kiến trúc chùa tháp thời Lý, bởi
những lỗ mộng vuụng để
tra ngõng có ở cả 4 hoặc 6 mặt các phiến đá trên, trong đó có một tấm được chạm
hoa cúc dây ở một mặt, còn các mặt khác có lỗ mộng dọc ngang, rất khó xác định
vị trí của nó trong tổng thể kiến trúc chùa tháp cổ ở chùa Cao “ điển hình về
hoa lá trong chùa tháp thời Lý là hoa sen và hoa cúc, mỗi bông hoa dù Sen hay
Cúc đều được nở gọn trong một vòng dây uốn tròn trổ nhiều lá mọc đối nhau”
Bên cạnh đó là các hiện vật đất
nung như các lá đề hiện trạng vỡ mất phần đầu,
Lá đề trang trí
hình Rồng
|
còn lại phần thân và đáy thể
hiện đề tài rồng uốn đối xứng nhau theo đề tài trang trí lưỡng rồng chầu ngọc.
Thân rồng uốn lượn hình sin. Chân rồng có 3 móng nhọn. Nhiệt độ nung rất cao,
nên hiện vật có độ cứng như sành. Kích thước cao 16cm, rộng 19cm, dày 2,5cm.
|
Hay đất
nung trang trí hình chim Phượng hai mặt khá chi tiết. Đuôi Phượng uốn lượn hình sin, như hình uốn thân rồng.
Thân có hai cánh xòe ra bao bọc lấy phần thân. Đầu với
mỏ nhọn cong hướng lên , lông gáy bay tua.Hình chim có một chân, với 3 móng vuốt.
Kỹ thuật vè chi tiết tỉ mỉ sống động. Kích thước cao 28cm, rộng 23cm, dày 3,5cm.
Gạch
trang trí Phượng
|
Gạch
trang trí Phượng
|
Gạch trang trí cũng tìm được không
nhiều. Các viên gạch được trang trí khá đẹp
Gạch lát trang trí Hoa cúc
|
Gạch
lát trang trí hoa sen
|
Với hoa văn hóa cúc dây thể hiện
chi tiết tinh tế Mảnh vỡ kích thước còn
lại dài 16cm, rộng 12cm, dày 6cm. Hoa văn
còn nhận biết một phần của đường tròn chính giữa, bên trong trang trí nhũ hoa với
3 vòng đều nhau, bên ngoài là hoa dây uốn mềm mại.Gạch
lát nền trang trí hoa sen, có kích thước
dài 38cm, rộng 34cm, dày 5cm. Hoa văn trang trí trên mặt gạch thể hiện hoa
sen ở chính giữa một khung hình vuông. Hoa sen có 8 cánh chia làm hai lớp cánh
nở xòe rộng
Vật đất
nung có hình trang trí vẩy nhiều lớp xếp nhau gồm nhiều mảnh bị vỡ. Hoa văn
hình vây cá xếp lớp. Đây có thể là mảnh thân rồng vỡ ra.Những hiện vật tìm được
khẳng định thời Lý trước đây có một ngôi chùa có quy mô lớn được xây dựng
mang đặc trưng của chùa thời Lý,
|
Trang trí vây cá
|
được
nhà Lý cho xây. Phải chăng đây là ngôi chùa mà công chúa Thụy Thiên đã từng xuất
gia tu tại đây (?)
Chùa My Điền tại thôn My Điền xã Hoàng Ninh huyện Việt
Yên, một ngôi chùa chùa tương truyền được xây từ thời Lý nay đổ nát, chùa hiện
tại được xây dựng trên nền cũ. Quá trình khảo sát tại đây đã phát hiện một số
di vật thời Lý :
Rồng đá được phát hiện ở chùa My Điền. Đây là loại rồng
được đặt ở thềm chùa. Rồng ở tư thế bò xuôi xuống, tạc bằng chất liệu đá xanh
trên đầu rồng có mào lửa, thân rồng uốn theo lối thắt túi có 4 chân. Thân rồng để
trơn không có vẩy – Do bị nước phân hoá nên các chi tiết trên thân rồng, đầu rồng
không còn rõ nét. Theo nhân dân địa phương cho biết, trước có một đôi, sau bị lấp
xuống ao. Sau này sửa chùa tìm lại được con rồng này
Phù điêu bằng đá cát hạt mịn hình lá đề chạm rồng. Có một
tấm lá đề còn nguyên vẹn chạm đôi rồng uốn lượn mềm mại, được tỉa tác rất chi
tiết Đường diềm lá đề thời Lý thường là
các dấu hỏi…lá đề trang trí hình rồng thời Lý thường được trạm trên các đồ đá
xây tháp ( Phật Tích, Tường Long, Chương Sơn….)
Phiến đá tay vịn
thành bậc cửa: Trên đó tạc một con sấu nghê – sóc đang trong tư thế trường từ
trên cao xuống, đầu có sừng gắn cạnh tai, thân để trơn , đuôi trẻ thanh sợi. Nhìn
chung con sấu nghê – sóc ở chùa Cao “ thô sơ, nhỏ bé hơn nhiều so với con sấu
nghê – sóc trong tư thế tay vịn chùa Lạng.
Tượng sư tử: ngồi trên một hình hộp tạc đá cát hạt mịn
màu vàng sẫm. Hai chân trước chống thẳng xuống đầu một con sơn nhô ra khỏi mặt
bệ, đầu con sơn này cong vát từ dưới lên, tạo văn xoáy chôn ốc. Dưới đáy đến có
đục lỗ mộng tra ngõng gần vuông. Trên thân sư tử có các hoa ( 5- 7 cánh ) nhỏ là đặc trưng của nghệ thuật
Lý”. Những hoa tròn cánh xoáy ngược chiều kim đồng hồ này "thường được trang trí trên mình sư tử và sấu thời Lý. Số lượng các
cánh xoáy thay đổi tuỳ từng nơi......
Bệ đá hạt thô ( 2
tấm), màu vàng nhạt, điêu khắc hoa văn sóng nước. Phiến to dài 44cm. dày 11cm. Đây
là những mảnh nhỏ trong cả một bệ đá lớn, nhiều tầng xếp chồng lên nhau đã bị vỡ
ra. ở di tích chùa Phật Tích, dù trên bệ tượng Phật, tảng kê chân cột hay trụ
búp, dù chỉ một đợt hay tới năm đợt chồng lên nhau thì đều là sóng thắt chân
hình nấm. Mỗi ngọn sóng thường có 3 lớp to, nhỏ lồng nhau, một típ sóng thường
có từ hai đến ba tầng tạo bởi những thắt gãy của đường cong parabol, cuối ngọn
sóng bẻ gấp cong và tạo cho chân sóng kế tiếp bên . Sóng chùa Dạm vẫn như sóng
chùa Phật Tích. Sóng nước trang trí ở chùa Cao rất gần gũi với những bệ đá ở Dạm
và Phật Tích. Trên phần trang trí sóng nước, chắc sẽ là những hoạ tiết rồng,
mây, hoa, lá, chim thần, dàn nhạc trang trí bên trên bệ thờ điển hình của thời
Lý.
2. Vùng đất văn hóa Thăng Long tỏa sáng.
Với hai nguồn tài liệu: lịch sử ghi chép và di vật tìm được
đã cho thấy văn hóa vùng đất có mối quan
hệ chặt chẽ với văn hóa Thăng Long thời Lý. Mối quan hệ đó thể hiện sự quan tâm
của nhà Lý với vùng đất trọng yếu phía đông bắc tổ quốc. Sự quan tâm ấy thể hiện
qua sự ràng buộc về hôn nhân, tạo nên mối quan hệ bền chặt giữa vương triều và
dòng họ quản lý vùng đất. Do giao thông thuận lợi với kinh đô Thăng Long, người
nhà Lý sinh sống trên vùng đất cho nên các công trình kiến trúc ở đây: cung,
chùa đều được ảnh hưởng, thấm đậm hình bóng các công trình kiến trúc của Thăng
Long hay vùng đất phát tích Thiên Đức. Sự có mặt của các viên gạch đề ghi niên đại,
hay các đề tài trang trí rồng, sư tử, thủy ba, chim phượng, trang trí gạch lát
nền đều mang mẫu thống nhất với các công trình kiến trúc do triều đình trực tiếp
bỏ tiền của xây dựng. Con rồng thời Lý ở đây có thể thấy trên các công trình
tháp Chương Sơn, Đọi Sơn ( Nam Hà); Tường Long ( Hải Phòng); Phật Tích ( Bắc
Ninh) . Các đề tài trang trí khác đều được thể hiện mang tính chất nghệ thuật
cung đình thời Lý. Có thể nói các di tích, di vật thời Lý trên vùng đất phía bắc
là một phần diện mạo của văn hóa Thăng Long.
Do điều kiện lịch sử, trên vùng đất có bề dày truyền thống văn hóa, hội tụ và phát triển các yếu tố văn hóa dân tộc, khi
văn hóa Thăng Long lan tỏa đến đây đã được
tiếp thu, hội nhập, hình thành nên một vùng văn hóa mang đậm sắc thái Thăng
Long. Những di tích thời Lý trên đất Bắc giang đã góp thêm một diện mạo, làm
phong phú bản sắc văn hóa Việt Nam trong lịch sử./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét