DẤU TÍCH VĂN HÓA CHĂM
TRONG KHÔNG GIAN VĂN HÓA THĂNG LONG
Vào cuối thế kỷ X, khi dân tộc Việt
giành được độc lập, định đô tại Hoa Lư, mối quan hệ Việt – Chăm được xác lập
trên tầm cao mới - mối quan hệ của hai tộc người độc lập. Nếu trước kia khi dân
tộc Việt chìm trong đêm trường tăm tối ngàn năm Bắc thuộc, thì người Chăm đã
giành được độc lập từ thế kỷ II ( 192) và xây dựng nên một nền văn hóa dân tộc đặc
sắc tỏa sáng trên vùng Đông Nam á. Trong điều kiện mới, buổi đầu độc lập, văn
hóa Việt sau ngàn năm gìn giữ nay có điều kiện dần phục hồi, xây dựng và tỏa
sáng thì mối quan hệ với văn hóa Chăm có
tiền đề phát triển. Mối quan hệ đó diễn ra đa chiều, trên mọi lĩnh vực và văn
hóa Chăm đã phần nào góp thêm những màu sắc làm phong phú văn hóa Việt trong lịch
sử. Theo sử liệu ghi chép dưới triều Lê Đại Hành:Năm 982, "Vua Thân đi đánh
nước Chiêm Thành thắng được...bắt sống được binh sĩ không biết bao nhiêu mà kể;
bắt được kỹ nữ trong cung trăm người và một người thầy tăng người Thiên Trúc; lấy
các đồ quý mang về, thu được vàng bạc của báu kể hàng vạn; san phẳng thành trì,
phá hủy tôn miếu, vừa một năm thì trở về kinh sư" . Những người Chăm được đưa
về Hoa Lư đã để lại dấu ấn khá nhiều trên vùng đất kinh đô này. Những phát hiện về cột kinh tại Hoa Lư mang đậm
yếu tố Mật Tông của phật giáo có ảnh hưởng
phảng phất của Phật giáo Chămpa tại Kinh đô Đồng Dương thế kỷ
IX –X. Những viên ngói mũi lá tìm được ở Hoa Lư là sự kế thừa của loại hình
ngói lợp Champa. Nhiều phong tục, lễ hội của người dân trong vùng cho đến nay vẫn
còn những yếu tố văn hóa Chăm ẩn tàng trong các nghi thức.
Vào thế kỷ XI ( năm 1010) khi nhà Lý chuyển đô
về Thăng Long “ là nơi
thắng địa, thực là chỗ hội tụ quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô
kinh sư mãi muôn đời”. Sự
chuyển đô này đã đánh dấu một thời kỳ mới, tạo tiền đề cho một thời kỳ phát triển
rực rỡ của văn hóa Đại Việt, khẳng định bản lĩnh dân tộc. Vương triều Lý tồn tại
trên 200 năm ( 1009 – 1225) với nhiều thành tựu hội tụ, phát triển tinh hoa văn
hóa của cả dân tộc trong một thời kỳ lịch
sử, trong những đóng góp đó có sự góp mặt của các nền văn hóa từ những tộc người anh em, trong đó có dân tộc Chăm, một
tộc người sinh sống quản lý trên dải đất phương nam
I Những
điều kiện lịch sử
Khi triều
Lý lên ngôi, định đô ở Thăng Long mở đầu mối quan hệ với tư cách của hai vương triều, năm 1011 người Chăm đã tỏ lòng hữu hảo bằng
cách dâng Sư Tử lên tiến cống, ngay sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi một năm Mối bang giao thân hữu ấy được thể hiện theo
thống kê ghi chép của Việt sử lược, riêng thời Lý, triều đình Champa cử hơn 43 đoàn
sứ bộ sang Đại việt tiến cống sư tử, voi trắng, cá sấu cùng nhiều sản vật địa
phương như tơ lụa, vàng bạc vv... Năm
1198 là năm sứ bộ cuối cùng của Chiêm Thành sang cống nhà Lý và xin cầu phong.
Mật độ sứ giả bang giao rất nhộn nhịp có giai đoạn 2 năm sai sứ sang Đại Việt một
lần như các năm 1057 đến 1065; hoặc mỗi năm một lần như các năm từ 1081 đến
1089.
Về quân
sự theo sử liệu ghi chép vương triều Lý đã 6 lần tiến quân xuống phương nam. Hơn
hai trăm năm cầm quyền với 6 lần tiến quân, bình quân trên 30 năm mới có một lần
người Việt tiến xuống phía nam. Năm 1020 sai Khai Thiên Vương Phật Mã và Đào Thạc
Phụ đem quân đi đánh Chiêm Thành ở trại Bố Chính. Năm 1044 Lý Thái Tông thân chinh cầm quân xuống phương nam, người
Việt tiến vào vùng đất VịJaya ( Bình Định) quốc đô của Champa. Năm 1069 Lý
Thánh Tông cầm quân đi đánh Chămpa bắt
vua nước ấy cùng dân chúng hơn 5 vạn người. Năm 1075 trước khi lập phòng tuyến
sông Như Nguyệt chặn cuộc xâm lược của nhà Tống. Lý Thường Kiệt đã đem quân di đánh
Chiêm Thành. Năm 1104 Lý Thường Kiệt lại cầm quân đi đánh Chiêm Thành.Năm 1167.
Tô Hiến Thành cầm quân đi đánh Chiêm Thành
Ngược lại theo sử liệu ghi chép kể từ khi vương
triều Lý cầm quyền người Chăm có đến 8
cuộc người Chiêm Thành đem quân ra cướp phá biên giới. Năm 1043 tháng 4 giặc
sóng gió Chiêm Thành cướp bóc dân ven biển; năm 1068 Chiêm Thành quấy nhiễu
biên giới. Năm 1074 Chiêm Thành lại quấy rối biên giới; năm 1104 Vua Chiêm
thành là Chế Ma Na đem quân vào cướp, năm 1132 Chiêm thành vào cướp châu Nghệ
An; năm 1166 sứ Chiêm thành đi đến miền Ô Lý dùng quân phong thủy mà vượt biển
cướp bóc nhân dân ven biển nước ta. Năm 1177 Chiêm thành đến cướp châu Nghệ An.
Năm 1218 Chiêm thành đến cướp châu Nghệ An. Các cuộc xung đột biên giới này thường
dân đến hệ quả là các cuộc tiến quân của
Đại Việt xuống Champa.
Hệ quả
của các cuộc tiến quân là năm 1069 Lý Thánh Tông bắt được vua Chế Củ “ Chế Củ
xin dâng 3 châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính để chuộc tội. Vua bằng lòng tha cho
Chế Củ về nước”. Lần đầu tiên một phần đất phía nam được hòa nhập vào lãnh thổ Đại
Việt. Đây là sự sát nhập tự nguyện trao đổi có điều kiện. Để củng cố quyền quản
lý lãnh thổ năm 1075 cùng với việc sai Lý Thường Kiệt tổng lĩnh các quân đi đánh
Chiêm Thành… Thường Kiệt bèn họa địa đồ hình thế núi sông của ba châu Địa Lý, Bố
Chính, Ma Linh rồi về. Đổi châu Địa Lý làm châu Lâm Bình, châu Ma Linh là châu
Minh Linh, chiêu mộ dân chúng đến đấy ở”. Những hoạt động quân sự hay ngoại
giao đã tạo điều kiện thuận lợi đa chiều cho văn hóa Champa dần từng bước hội
nhập vào văn hóa Việt trong đó có không gian văn hóa Thăng Long.
Trong
những mối quan hệ , đáng chú ý: Năm 1044
Lý Thái Tông đánh kinh thành bắt sống hơn
5.000 người đưa về Đại Việt cho ở từ trấn Vinh khang ( Nghệ An) đến Đăng châu(
Yên Bái – Lào Cai) sinh sống cho các tù binh được nhận người cùng bộ tộc, đặt hương
ấp phỏng tên gọi cũ của Chiêm Thành. Đặc biệt hơn một bộ phận người Chăm được
nhà Lý tạo điều kiện cho định cư tại
chính trung tâm Thăng Long. Lý Thái Tông khi vào Phật Thệ ( ViJaya) bắt vợ cả vợ
lẽ… và các cung nữ giỏi hát múa khúc điệu Tây Thiên đưa về Thăng Long. Năm 1045 sau cuộc chinh phạt phương nam, vua Lý chế xe Thái Bình lấy vàng trang sức “ Bồng La nga” tức cái bành voi của Chiêm Thành để kéo...năm 1046
“ dựng cung riêng cho các cung nữ Chiêm Thành”
Năm 1060 lại “ Tháng 8 phiên dịch nhạc khúc và điệu đánh trống
của Chiêm Thành sai nhạc công ca hát”. Năm 1203
“ Sai nhạc công chế khúc nhạc gọi là nhạc Chiêm Thành, tiếng trong trẻo
ai oán buồn rầu, người nghe phải chảy nước mắt”.Đặc biệt hơn về tinh thần năm
1069 Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, trong số những tù binh bắt được
đưa về Thăng Long có một nhà sư Trung Quốc. Là người hâm mộ đạo phật, tiếp thu
những giáo lý Phật giáo; Lý Thánh Tông đã
đưa vị sư này về chùa Khai Quốc, phong làm Quốc sư khai sinh ra phái Thảo đường, một thiền phái
của phật giáo vương triều và tự mình trở
thành thế hệ đầu của thiền phái này.. Thiền phái Thảo đường duy trì được 5 thế
hệ trong đó có 3 vị vua tham gia ( Lý Anh Tông thế hệ thứ ba; Lý Cao Tông thế hệ thứ năm) cùng nhiều vị
quan lại đại thần trong triều như Tham chính Ngô Ích ( thế hệ thứ hai); Thái
phó Đỗ Anh Vũ(thế hệ thứ ba); thái phó Đỗ Thường ( thế hệ thứ tư) và
Quản giáp Nguyễn Thức ( thế hệ thứ năm). Từ nền tảng ban đầu mà nhà Lý tạo bước
đột phá, các triều đại Trần – Lê tiếp nối,
các cuộc hội nhập văn hóa Việt – Chăm diễn ra thường xuyên trong lịch sử để đến
cuối thế kỷ XV ( năm 1472) cơ bản phần đất người Chăm quản lý đã hội nhập vào
lãnh thổ chung và văn hóa Champa trở thành một bộ phận của văn hóa dân tộc Việt
Nam trong lịch sử.
Hệ quả
của việc giao lưu tộc người và văn hóa
là văn hóa Việt tiếp nhận và chọn lọc
đưa những giá trị văn hóa tinh thần từ văn hóa Chăm vào tham gia thành tố
văn hóa Việt, mà trong đó Thăng Long là nơi hội tụ kết tinh.
II Những
bằng chứng lịch sử.
Trước đây khi nghiên cứu về văn hóa Thăng Long thời Lý – Trần, những nhà
nghiên cứu đã chú ý về những dòng ghi chép trong lịch sử về sự có mặt của những
nhóm người Chăm sinh sống, cùng những phong tục mang ảnh hưởng của văn hóa Chăm
với nhóm cộng đồng người vùng đất xung quanh Thăng Long. Tuy nhiên, những công
trình hay bài viết về những dấu ấn văn hóa Chăm ở Thăng Long - Hà Nội chưa được
chú ý nhiều. Chúng ta chỉ bắt gặp những phát hiện, những nghiên cứu đơn lẻ về dấu ấn của văn hóa Chăm nằm chìm
trong nền văn hóa Việt. Những phát hiện này được tìm thấy qua các cuộc điều tra
điền dã khảo cổ học như: Nguyễn Vinh Phúc: tìm ra thôn Bà Già ( 1986); Những
pho tượng phỗng Chàm trong các di tích ở Hà Nội của Nguyễn Xuân Diện; Làng Phú
Gia từ truyền thống tới hiện tại của Công Phương Khương(1999); Hai bức tượng Chăm
ở chùa Bạch Sam (Hà Nội) của Nguyễn Tiến Đông và Nguyễn Hữu Thiết ( 2004) hay về
Tượng uyên ương thời Lý ở chùa Bà Tấm, Phật tích, Dạm…của Trần Anh Dũng, Trần
Thị Trúc Đào ( 2007). Và xa hơn nữa là công trình nghiên cứu về : Thần người đất
Việt của Tạ Chí Đại Trường cũng đề cập một vài
dấu ấn văn hóa Chăm trên vùng đất Thăng Long.Nhìn chung những nghiên cứu
về văn hóa Việt - Chăm có số lượng không
nhiều, chỉ dừng lại ở những nghiên cứu trường hợp nhỏ lẻ, thiếu hệ thống.
Đáng
chú ý về khảo sát là tìm ra thôn Bà Già, một làng người Chăm được tụ cư sinh sống
từ thời Lý, nay chính là thôn Phú Gia ( Từ Liêm- Hà Nội). Dựa vào cuốn sách cổ “
Bản xã thần ký” truy tìm trong lịch sử đã
cho thấy nhóm người Chăm được Lý Thánh Tôn sau khi chinh phạt Champa ( 1044) đã
đưa nhóm người này đến vùng ven Thăng Long cư trú lập ra thôn Đa da li ( sau được
phiên âm là Bà Già). Làng Chăm này đến thời Trần khá thịnh đạt, tướng Trần Nhật
Duật thường đến đây ngao du. Tài liệu này phù hợp với lịch sử ghi chép
Theo suốt
dặm dài lịch sử, dấu ấn văn hóa Champa để lại cùng ảnh hưởng từ nền văn hóa này
đã lan tỏa và để lại dấu ấn trong lòng văn hóa Đại Việt, văn hóa Thăng Long vô
cùng đa dạng dưới nhiều loại hình và hình thức khác nhau, vật thể và phi vật thể.
Tại
kinh thành Thăng Long, cuộc khai quật khảo cổ học tại di tích Hoàng thành xưa (
18 Hoàng Diệu) trong những hiện vật tìm được có một viên gạch viết chữ
Chăm
cổ ( tự dạng Skanrit). Bên cạnh đó là hàng loạt các hiện vật đồ gốm có men
mang đặc trưng của gốm Champa tại Bình
Định ( ViJaya).Các di tích khác như tháp Báo Thiên xây thời Lý có dấu ấn của
văn hóa Chăm qua các điêu khắc; chùa Bà Đanh “ Xây dựng từ đời Hồng Đức nhà Lê để cho dòng dõi Lâm ấp
ở (Tống gọi là Chiêm Thành, tục ta gọi là Xiêm?). Đời hậu Lê đã phá bỏ „ cho đến
|
Gạch chữ Chăm tại Thăng Long
|
nay chỉ còn lại trong sử liệu ghi chép
Những
vùng ngoại vi Thăng Long, đền Bà Tấm ( Gia Lâm – Hà Nội) cho đến nay vẫn còn
hai hai đầu tượng Sư Tử mang dấu ấn từ văn hóa Chăm
Tượng
Sư Tử Champa
|
Đầu Sư
tử đền Bà Tấm
|
Một số chùa ở Hà Nội bên những tín ngưỡng Phật giáo của
người Việt, trong chùa xuất hiện những tượng thờ mang yếu tố Champa. Chùa Chài ( Đông Anh – Hà Nội), tượng Phật bà thể hiện như tượng thần Mẹ xứ
sở trong văn hóa Champa trong đó có những nét tương đồng về phong cách, hình
thái thể hiện, hay tượng thần Shiva là vị thần Ân Độ giáo cũng được gia nhập
vào phật điện chùa Việt
Tượng Mẹ PoNaga ( Champa)
|
Tượng Phật chùa Chài ( Đông Anh – Hà Nộ)
|
Tîng
Shiva – BT Đà nẵng
|
Tîng
Shiva chúa Chài
|
Tại các công trình kiến trúc Phật giáo không
xa Thăng Long như chùa Phật Tích ( Bắc Ninh), ngoài yếu tố xây dựng tháp trên
núi cao theo truyền thống địa điểm xây dựng tháp Champa
theo phong cách Bình Định ( thế kỷ XI – XIII)Thì các điêu khắc trang trí tháp
mang nhiều đề tài theo nghệ thuật điêu khắc Champa như Kirana, tượng đất nung
Uyên ương
Đầu tượng
Sư Tử và tượng Kirana ( chùa Phật Tích- Bắc Ninh)Đầu tượng Sư Tử và tượng
Kirana ( chựa Phật Tích- Bắc Ninh)
|
Các
chùa tháp như Tường Long ( Hải Phòng);
Chương Sơn, Đọi Sơn ( Hà Nam)
dấu ấn
văn hóa Champa để lại khá phong phú trên các tác phẩm điêu khắc trang trí tháp.
Nhưng tài liệu vật chất hiện thấy cho biết văn hóa Champa theo năm tháng có ảnh
hưởng khá rộng đến cư dân văn hóa Việt, nhất là nơi có cộng đồng người Chăm cư
trú đang dần hội nhập vào văn hóa Việt, trong đó trung tâm là Thăng Long.
Bên cạnh
những di tích vật thể, dấu ấn văn hóa
phi vật thể vẫn hiện hữu trong đời sống tinh thần của những nhóm cộng đồng cư
dân..
Những
cuộc thăm đất nước Champa “ không chính thức” bằng vũ lực đã đưa hàng ngàn người
dân Chăm về sinh sống trên Đại Việt từ Nghệ An cho đến Yên Bái – Lao cai. Những
người dân Chăm đến sinh sống có nhiều tầng lớp, người theo tôn giáo, cung nhân,
thợ thủ công. Đến sống trên vùng đất mới được quy tụ theo bộ tộc hương ấp, văn
hóa Champa lại có điều kiện tồn tại trong lòng nền văn hóa Việt. Tại Hà Nội cho
đến nay còn nhiều làng gốc người Chăm cũ như thôn Bà Già ( Từ Liêm – Hà Nội).
Các vùng ven Thăng Long như Yên Sở, Hoài Đức, Chương Mỹ cho đến nay còn nhiều dấu ấn văn hóa Chăm như
kỹ thuật khai thác đá ong, kỹ thuật xây giếng nước cùng nhiều phong tục, tập
quán của ngươì Chăm để lại. Có ý kiến cho rằng, cây dừa là biểu tượng của người
Chăm ( thị tộc Dừa), cho nên khi đến cư trú nơi sống mới họ thường mang theo
cây dừa để nhớ về quê cũ. Hoài Đức xứ xở
của Dừa ven Thăng Long; Thanh Hóa quê hương của Dừa xứ bắc được coi là một tiêu chí văn hóa Chăm
lan tỏa trong không gian văn hóa Việt. Các trí thức, nghệ nhân, nghệ sĩ, tôn
giáo, người Chăm đã mang đôi tay tài hoa và khối óc thấm đậm văn hóa Chămpa
ngàn năm dần hội nhập vào văn hóa Việt. Nếp sống của người Chăm hòa lẫn vào văn
hóa Việt theo thời gian.Văn hóa Champa không chỉ hòa trộn trong không gian văn
hóa Thăng Long; với số lượng người đông được
phân bố rộng khắp trên lãnh thổ Đại Việt
chắc chắn sẽ diễn ra quá trình tiếp biến văn hóa Việt - Chăm mạnh mẽ, kéo dài
qua nhiều thế kỷ Lý – Trần – Lê tạo nên sắc màu cuộc sống phong phú, đa dạng trong
lòng văn hóa Việt truyền thống. Văn hóa
Chăm trong không gian văn hóa Thăng Long
là một trong những tâm điểm của quá trình hội nhập lâu dài đó./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét