KHẢO CỔ HỌC CHAMPA - SAU NĂM 1975
Văn
hóa Champa là nền văn hóa lớn, có mặt theo suốt chiều dài lịch sử văn hóa dân
tộc trên dải đất miền Trung và Cao nguyên đại ngàn. Sự độc đáo, giàu bản sắc
tộc người chủ nhân sáng tạo ra, văn hóa Champa được nhiều thế hệ học giả trong
và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Do điều kiện lịch sử, sau năm 1975 khi nước
nhà được thống nhất việc nghiên cứu văn hóa Champa được khởi động lại và tiến hành đồng bộ trên nhiều
lĩnh vực với nhiều cơ quan nghiên cứu khác nhau, trong đó có Khảo cổ học.
I. Những cuộc khai quật khảo cổ học
trước năm 1975.
Cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khi tiếp xúc với các di tích văn hóa Champa, cùng với
việc nghiên cứu các dấu tích vật chất còn lại trên mặt đất, nhiều cuộc khai
quật khảo cổ học được tiến hành. Đầu thế kỷ XX các học giả người pháp tiến hành
khai quật các di tích Champa như Mỹ Sơn ( 1901 -1902); Đồng Dương ( 1904);
Chánh Lộ( 1904); PoNaga ( 1906 - 1909), tiếp theo là các cuộc khai quật ở Mỹ
Đức, Trung Quán ( Quảng Bình) năm 1927 -1928; Trà Kiệu ( 1927 -1928) vv.... và
cuối cùng là cuộc khai quật Tháp Mẫm ( Bình Định – 1934).
Kết
quả khai quật được đăng tải trên các tập san nghiên cứu thời kỳ đó và được sử
dụng trong các công trình nghiên cứu về văn hóa Champa sau này. Những cuộc khai
quật này cho thấy:
-
Tiến hành tổ chức khai quật nghiên cứu khảo cổ học chủ yếu là các học giả nước
ngoài đảm nhận
- Các
cuộc khai quật tiến hành trên loại hình
kiến trúc và phế tích kiến trúc, tìm kiếm hiện vật, chủ yếu là hiện vật điêu
khắc
-
Khảo cổ học phục vụ mục đích là khảo cổ
học nghệ thuật
Những hiện vật thu được qua khai quật bổ xung cho
hiện vật sưu tầm góp phần hình thành nên các bộ sưu tập trưng bày tại các bảo
tàng: Đà Nẵng, cung đình Huế, Hà Nội, Sài Gòn.
Sau
cuộc khai quật tháp Mẫm ( 1934) cùng sự hoàn thiện các sưu tập trưng bày tại bảo tàng, các cuộc khai quật Khảo cổ học hầu
như chấm dứt.
II. Những cuộc khai quật Khảo cổ học
sau năm 1975.
1. Điều kiện lịch sử - xã hội:
Sau
năm 1975, nước nhà được thống nhất việc phục hồi và xây dựng phát triển nền văn
hóa dân tộc sau chiến tranh được đặt ra, trong đó có việc nghiên cứu các nền
văn hóa trong lịch sử.
Cùng với nền văn hóa chung của dân tộc, văn
hóa Champa tiếp tục được khởi động nghiên cứu với tinh thần, nội dung mới toàn
diện hơn theo quan điểm lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
Lịch sử làm kim chỉ nam.
Kế
thừa kinh nghiệm nghiên cứu của ngành khảo cổ học Việt Nam, nghiên cứu Khảo cổ
học Champa được thực hiện chủ yếu do các nhà Khảo cổ học Việt Nam chủ động tiến hành với sự cộng tác của nhiều
cơ quan nghiên cứu Khảo cổ học nước ngoài như Anh, Nhật, Hoa kỳ, Pháp, Italya
vv...
Khảo
cổ học Champa được tiến hành toàn diện hơn với mọi loại hình di tích nhằm góp
phần tìm hiểu toàn diện hơn văn hóa Champa trong lịch sử cùng những đóng góp
độc đáo của nền văn hóa này vào văn hóa chung của dân tộc.
Với
mục tiêu đặt ra, sau năm 1975 các cuộc khai quật khảo cổ học được tiến hành
trên nhiều lĩnh vực, mọi địa hình, loại hình di tích mà người Chăm đã sáng tạo
ra trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa của mình.
2. Những cuộc khai quật khảo cổ học
2.1. Khai quật kiến trúc tháp - phế
tích.
Sau
năm 1975 cùng với việc gìn giữ phát huy giá trị của các kiến trúc tháp Champa
hiện còn, thì nhiều cuộc khai quật khảo cổ học được tiến hành với mục đích tìm
kiếm tư liệu chân xác phục vụ cho việc trùng tu tôn tạo các tháp. Bên cạnh đó
nhiều cuộc khai quật làm xuất lộ dấu tích các kiến trúc nhằm góp phần nghiên
cứu về giá trị của loại hình kiến trúc này qua các nguồn tư liệu: mặt bằng kiến
trúc, vật liệu, kỹ thuật xây dựng, họa tiết trang trí cùng giá trị tâm linh của
tôn giáo. Đặc biệt nhiều cuộc khai quật đã tìm được nhiều tác phẩm điêu khắc đá
góp phần hình thành nên các phòng trưng bày chuyên đề giới thiệu về văn hóa
Champa như: Thừa Thiên - Huế, Quảng Ngãi, Bình Định vv...
Theo
thống kê sau năm 1975 Khảo cổ học đã tiến hành khai quật các di tích kiến trúc
tháp và phế tích như sau:
BẢNG THỐNG KÊ CÁC KIẾN TRÚC THÁP
CHAMPA
KHAI QUẬT SAU NĂM 1975
Số TT
|
Tên kiến trúc
|
Địa điểm
|
Ghi chú
|
1
|
An Xá
|
thôn An Xá- Trung Sơn- huyện Do
Linh- Quảng Trị
|
|
2
|
Vân
Trạch Hòa
|
Vân
Trạch Hòa- Phong Thu- Phong Điền- Thừa Thiên Huế
|
|
3
|
Mỹ
Khánh
|
thôn
Mỹ Khánh- Phú Diên, huyện Phú Vang- ThừaThiên
– Huế
|
|
4
|
Phong
Lệ
|
Thôn
3, Phường Hòa Thọ Đông, Quận Cẩm Lệ, Thành phố Đà Nẵng.
|
|
5
|
Cấm
Mít
|
thôn
Cẩm Toại Đông- Hòa Phong- Hòa Vang – Đà Nẵng
|
|
6
|
Chiên
Đàn
|
xã
Tam An, huyện Phú Ninh- Quảng Nam
|
|
7
|
Khương
Mỹ
|
xã Tam Xuân I; huyện Núi Thành- Quảng Nam
|
|
8
|
An
Phú
|
thôn An Thiện- Tam An- Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam.
|
|
9
|
Tháp
F
|
Mỹ
Sơn- Duy
Xuyên- Quảng Nam
|
|
10
|
Tháp
G
|
Mỹ
Sơn- Duy
Xuyên- Quảng Nam
|
|
11
|
Tháp
D
|
Mỹ
Sơn- Duy
Xuyên- Quảng Nam
|
|
12
|
Khánh
Vân
|
thôn
Thọ Đông xã Tịnh Thọ, huyện Sơn Tịnh. tỉnh Quảng Ngãi
|
|
13
|
Bình
Lâm
|
thôn
Bình Lâm- Phước Hòa, huyện Tuy Phước- Bình Định
|
|
14
|
Cánh
Tiên
|
thôn
Bả Canh, xã Nhân Hậu, huyện An Nhơn- Bình Định
|
|
15
|
Bánh
Ít
|
thôn Đại Lộc- Phước Hiệp, huyện Tuy Phước -
Bình Định.
|
|
16
|
Dương
Long
|
thôn
vân Tường xã Bình Hòa, huyện Tây Sơn – Bình Định
|
|
17
|
Tháp
Mẫm
|
thôn Vạn Thuận- Nhơn Thành, thị
xã An Nhơn- Bình Định
|
|
18
|
Tháp
Núi Bà
|
Đông Hòa - Phú Yên
|
|
19
|
PoNaGa
|
thuộc
phường Vĩnh Hải- TP Nha Trang – Khánh Hòa
|
|
20
|
Hòa
Lai
|
thôn Ba Tháp- Bắc Phong, huyện
Thuận Bắc – NinhThuận.
|
|
21
|
PoDam
|
Thôn
Tuy Tịnh – xã Phú lạc – Tuy Phong – Bình Thuận
|
|
22
|
Yang
Prong
|
xã Ea Rop, huyện EaSup - Đắc Lắc.
|
|
23
|
Kbeng
|
Buôn
Jú, xã Krông Năng huyện Krông Pa- Gia
Lai
|
2.2
Khai quật Khảo cổ học những tòa thành cổ.
Trong
những di tích văn hóa Champa để lại, thành cổ là loại hình khá phổ biến, có mặt
trên mọi vùng đất do người Chăm quản lý trong lịch sử. Đây là những trung tâm
chính trị, kinh tế văn hóa, quân sự quan trọng, hạt nhân trong hệ thống di tích
văn hóa Champa, đặc biệt là những tòa thành giữ vai trò kinh đô trong lịch sử(
Simhapura, Indrapura, Vijaya vv...). Sau năm 1975 nhận rõ về vai trò của các
tòa thành trong việc nghiên cứu toàn diện văn hóa Champa, các tòa thành được
khảo sát tiến hành khai quật ( cắt tường thành, di tích trong thành). Kết quả
khai quật đã góp nhiều tư liệu quan trọng phục dựng đời sống kinh tế, văn hóa
champa qua các thời kỳ lịch sử khác nhau.
Bảng thống kê các tòa thành được khai quật sau năm 1975
Số TT
|
Tên thành
|
Địa điểm
|
Ghi chú
|
1
|
Thành Cao Lao Hạ
|
Quảng Trạch - Quảng Bình
|
|
2
|
Thành Hóa Châu
|
Quảng Điền - Thừa Thiên Huế
|
|
3
|
Thành Trà Kiệu
|
Duy Xuyên - Quảng Nam
|
|
4
|
Thành Hồ
|
Phú Hòa - Phú Yên
|
2.3
Khai quật các di chỉ cư trú.
Di
chỉ cư trú là loại hình di tích khá phổ biến trên địa bàn cư trú của người Chăm
trong lịch sử. Sau năm 1975 nhiều di tích cư trú được tiến hành khai quật nhằm
tìm kiếm tư liệu góp phần phục dựng lại đời sống của cư dân Chăm xưa trong lịch
sử. Qua các địa tầng cư trú, hiện vật sinh hoạt, kiến trúc đã phần nào phản ánh
đời sống kinh tế của người Chăm qua các thời kỳ lịch sử. Những tài liệu thu
được góp phần phục dựng bức tranh tổng thể về đời sống vật chất tinh thần của
người Chăm, bổ xung cho nguồn sử liệu ghi chép.
Bảng thống kê các di tích cư trú được khai quật sau năm
1975
Số
TT
|
Tên di tích
|
Địa điểm
|
Ghi chú
|
1
|
Nam Thổ Sơn
|
Ngũ hành Sơn - Đà Nẵng
|
|
2
|
Bãi làng
|
Cù
Lao Chàm - Hội An - Quảng Nam
|
|
3
|
Gò Cấm
|
Mậu
Hòa - Duy Xuyên - Quảng Nam
|
|
4
|
Cổ Lũy- Phú Thọ Hòa
|
Tư Nghĩa - Quảng Ngãi
|
2.4.
Khai quật các lò gốm cổ.
Đồ
gốm là một loại hình di vật quan trọng trong việc tiếp cận, nghiên cứu một nền
văn hóa . Nghiên cứu đồ gốm là lĩnh vực mới trong văn hóa Champa. sau năm 1975
cùng với việc khảo sát, thu thập di vật đồ gốm Champa trong lịch sử, thì các
cuộc khai quật các lò nung gốm cũng được tiến hành. Tư liệu qua các cuộc khai
quật lò nung cung cấp cho biết về nghề sản xuất gốm Champa trong lịch sử về kỹ
thuật sản xuất, kỹ thuật nung, chế tác, các loại hình sản phẩm từ đó tìm ra
những đặc trưng của gốm Champa trong lịch sử, các mối quan hệ thương mại thông
qua sự có mặt của đồ gốm trên nhiều vùng khác nhau. Đây là một trong những đóng
góp quan trọng của Khảo cổ học Việt Nam trong việc nghiên cứu văn hóa Champa.
Bảng thống kê các lò nung gốm được khai quật sau năm 1975
Số
TT
|
Tên di tích
|
Địa điểm
|
Ghi chú
|
1
|
Núi Chồi
|
Sơn Tịnh - Quảng Ngãi
|
|
2
|
Gò Cây Mận
|
Gò Sành - An Nhơn - Bình Định
|
|
3
|
Gò Cây Quảng
|
Gò Sành - An Nhơn - Bình Định
|
|
4
|
Gò Hời
|
Tây Sơn - Bình Định
|
|
5
|
Gò Trường Cửu
|
An Nhơn - Bình Định
|
III. Những đóng góp của Khảo cổ học vào
nghiên cứu văn hóa Champa.
Văn hóa Champa
cho đến nay có cả bề dày nghiên cứu hơn một thế kỷ với nhiều thế hệ học giả
trong và ngoài nước, tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau trong đó có ngành
khảo cổ học. Những kết quả
nghiên cứu được công bố đã khẳng định giá trị vô giá của nền văn hóa này đóng
góp vào bề dày lịch sử văn hóa chung dân tộc. Kế thừa những thành tựu nghiên
cứu dưới góc độ khảo cổ học đi trước, trong những năm sau 1975, khảo cổ học đã
tiến hành hàng loạt các cuộc khai quật, thu được khối lượng tài liệu lớn, vô
cùng phong phú góp thêm những nhận thức, hiểu biết về văn hóa Champa trong lịch
sử.Những di tích, di vật tìm được qua những kết quả khảo cổ học đã góp
phần nhận thức những giá trị lịch sử,
văn hóa của dân tộc trong lịch sử trên
vùng đất miền Trung Tây Nguyên, góp phần nhận thức về các nền văn hóa theo suốt
chiều dài lịch sử
1. Những kết quả thu được qua khai quật khảo
cổ học sau năm 1975 đã cung cấp nguồn tư liệu chân xác góp phần nhận thức, nhận
diện mới về lịch sử văn hóa Champa trên các vấn đề sau:
1.1. Nguồn gốc văn hóa Champa.
Văn hóa Champa là một nền văn hóa
lớn, độc đáo, giữ vị trí quan trọng trong bức tranh tổng thể văn hóa dân tộc
trong lịch sử. Sự nổi trội, đặc sắc của nền văn hóa này, đặc biệt là các công
trình kiến trúc tôn giáo ( đền tháp) đã hấp dẫn các học giả thực dân ngay buổi
đầu xâm lược nước ta. Được quan tâm nghiên cứu từ những thập niên cuối
của thế kỷ XIX kéo dài đến giữa thế kỷ XX văn hóa Champa được biết đến khá đa
dạng dưới các góc độ: sử học, dân tộc
tộc, bia ký, phong tục, tập quán, tôn giáo và đặc biệt là khảo cổ học. Việc
nghiên cứu các di chỉ cư trú, những tòa thành cổ, trung tâm chính trị, kinh tế
văn hóa của người Chăm chưa được quan tâm đúng mức.
Sau năm 1975, kế
thừa những thành tựu nghiên cứu trước đó, việc nghiên cứu văn hóa Champa được
đẩy mạnh trên các lĩnh vực, trong đó có việc tìm về cội nguồn của nền văn hóa
này. Cùng với việc nghiên cứu các công trình kiến trúc, các tòa thành cổ, di
chỉ cư trú được khảo cổ học quan tâm. Kết quả thu được đã góp những tư liệu quý
nhằm tìm về nguồn gốc của nền văn hóa này. Cùng tồn tại trên dải đất miền
Trung, trước đây khi nghiên cứu văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Champa, các nhà
nghiên cứu đã manh nha nhận thấy tính kế
thừa, liên tục của hai nền văn hóa.
Về nguồn gốc văn hóa
Champa có nhà nghiên cứu khi nghiên cứu
văn hóa Sa Huỳnh đã đặt nghi vấn “ Phải chăng người Chăm là hậu duệ của chủ nhân văn
hoá Sa Huỳnh ” .
Sau này khi so sánh đối chiếu tài liệu văn
hoá Champa với văn hoá Sa Huỳnh, các nhà
nghiên cứu nhận thấy: “ người Chăm cũng là cư dân nói tiếng Nam đảo hay Mãlai –
Pôlinêdiên và tiếng Chăm cũng đã pha trộn nhiều yếu tố tiếng Nam á” và chỉ ra
những yếu tố tiếp nối phát triển từ văn hoá Sa Huỳnh lên văn hoá Champa
“ Từ thực tiễn khảo cổ học đã đề cập trên về
văn hoá Sa Huỳnh và văn hoá Champa, chúng ta có thể suy luận một cách lôgíc
rằng: văn hoá Champa đã nảy sinh từ văn hoá Sa Huỳnh và người Chăm cổ là con
cháu của người Sa Huỳnh xưa”
Từ cuộc thám sát, khai quật khảo cổ học đầu tiên về thành cổ
Trà kiệu năm 1985 do khoa Lịch sử Trường Đại học tổng hợp Hà Nội tiến hành đã
cho thấy một lớp cư trú của người dân Champa trong tòa thành cổ này. Lớp cư trú
dày từ 0,6m – 1,0m với nhiều di vật đồ gốm kiến trúc, đồ gốm vô cùng phong phú
phản ánh nhiều hoạt động kinh tế, sinh hoạt của cư dân Chăm xưa với khung niên
đại thế kỷ III – VI.Phân tích địa tầng cùng di vật gốm, những người khai quật
đã nhận thấy mối liên hệ giữa đồ gốm Champa với những đồ gồm Sa Huỳnh muộn có
sự tương đồng về chất liệu, nhiệt độ
nung hay hình dáng gốm. Phải chăng văn hóa Champa có nguồn gốc từ văn hóa Sa
Huỳnh.
Những cuộc khai quật các di chỉ cứ trú trong các tòa thành cổ: Trà Kiệu,
Cổ Lũy, Thành Hồ và di tích Nam Thổ Sơn, đã cung cấp thêm những tư liệu hiện
vật để làm sáng tỏ luận cứ khoa học đã
nêu có thể thấy các cuộc khai quật này đều có địa tầng văn hóa từ 0,8m – 1,0m
với nhiều lớp văn hóa khác nhau, trong hàng nghìn mảnh gốm tìm được thuộc nhiều thời đại khác
nhau, đồ gốm lớp dưới cùng sát sinh thổ đã tìm thấy khá nhiều mảnh gốm thuộc
văn hóa Sa Huỳnh lẫn cùng những mảnh gốm được các nhà nghiên cứu gọi là gốm
tiền “Champa”. Tại di tích thành Trà Kiệu nằm tại độ sâu 1,0m sát đất sinh thổ,
hay tại thành Hồ nằm ở độ sâu 0,8m các mảnh gốm đặc trưng của văn hóa Sa Huỳnh
có mặt chứng tỏ, người Chăm có sử dụng đồ gốm Sa Huỳnh hay chế tác đồ gốm theo phong
cách gốm Sa Huỳnh.
Tại di tích thành Hóa Châu, dưới lớp
gốm Việt, Chăm là những mảnh gốm Sa Huỳnh đã cho thấy tòa thành này có nguồn
gốc từ một tòa thành cổ của người Chăm, và nơi đây cũng đã từng có mặt của cư
dân Sa Huỳnh.
Điều dễ nhận thấy các đồ gốm sớm của
người Chăm có cùng chất liệu, màu sắc hay độ nung tương tự gốm Sa Huỳnh. Đồ gốm
thu được tại các di tích cư trú như Nam Thổ Sơn, Cổ Lũy, Trà Kiệu, Thành Hồ,
thành Hóa Châu cho thấy, lớp gốm dưới cùng sát lớp đất sinh thổ đều có gốm Sa
Huỳnh, tiếp đến là gốm Champa. Chỉ thị về địa tầng và đồ gốm cho thấy có sự kế
thừa nhau về địa điểm cư trú, đồ dùng sinh hoạt chất liệu gốm. Gốm Champa tiếp
nối mang những đặc trưng cơ bản của gốm Sa Huỳnh. Gốm có hai dòng chính về chất
liệu đó là gốm thô và gốm mịn. Gốm thô có xương dày pha cát hạt thô hoặc bã
thực vật. Gốm mịn xương mỏng mịn, có pha cát hạt mịn.Về chất liệu xương gốm có
chất liệu tương tự nhau đó là đất sét đỏ được pha cát và bã thực vật. Màu sắc
gốm thường có màu đỏ hay vàng nhạt. Độ nung không cao. Hoa văn trang trí đơn
giản. Loại hình được kế thừa về hình dáng: cốc chân cao, nồi vò, bát.Những tư
liệu này là cơ sở góp phần khẳng định
văn hóa Champa là sự kế tiếp của văn hóa Sa Huỳnh trên dải đất miền Trung hay
nói cách khác văn hóa Sa Huỳnh là một bộ phận hình thành nên văn hóa Champa
trong lịch sử. Như vậy về lịch sử, tài liệu khảo cổ học đã
góp phần tìm về nguồn gốc của văn hóa Champa, nối dài lịch sử của nền văn hóa
này, khẳng định tính bản địa, nội sinh của văn hóa Champa .Nguồn gốc của tộc
người Chăm là cư dân bản địa có trình độ phát triển kinh tế văn hóa tổ chức xã hội cao.Đây là tiền đề tầng nền để
xây dựng nên nhà nước cổ Champa, nền văn hóa Champa rực rỡ giai đoạn sau.
1.2. Kết quả
khai quật di tích Gò Cấm ven dòng sông Bà Rén ( Duy Xuyên – Quảng Nam) trong những
năm 2000 – 2001 kết quả cho thấy đây là dấu tích của một ngôi nhà sàn gỗ sụp
cháy với toàn bộ ngói lợp. Ngôi nhà có
diện tích rộng khoảng trên 100m2
với cột gỗ , sàn gỗ, mái lợp ngói âm dương. Ngói ở đây có kích thước
lớn( dài 0,3m; rộng 0,20m dày 0,02m), tạo dáng uốn cong lòng mo. Ngói được chế
tác bằng khuôn với những dấu thanh tre làm cốt, lòng lót vải khá mịn, được nung
già, độ cứng cao. Cùng với ngói là những
hiện vật liên quan như dao sắt thời Hán, đồ thuỷ tinh, Phong Nê, đồ gốm vv… Dựa
vào khối di vật tìm được cho thấy di tích kiến trúc này có niên đại vào khoảng thế kỷ I – II. Điều này cho
thấy hai vấn đề: sự có mặt của người
Trung Hoa ở phía Nam như tài liệu lịch sử ghi chép về cuộc khởi nghĩa của người
Chăm ở quận Nhật Nam chống lại ách đô hộ của người Hán giành độc lập, lập nên
nhà nước Lâm Ấp vào cuối thế kỷ II. Hai là người Chăm có mối giao lưu văn hóa
sớm với nền văn minh Trung Hoa đã tiếp thu sử dụng những thành tựu của nền văn
hóa này vào đời sống cư dân Chăm. Những
hiện vật như ngói âm dương, đầu ngói ống có nguồn gốc văn hóa Trung Hoa là sự
minh chứng cho sự tiếp thu giao lưu với các nền văn hóa bên ngoài, trong đó văn
hóa Trung Hoa giữ vai trò quan trọng trong buổi đầu người Chăm độc lập. Dù thế
nào đi chăng nữa tài liệu góp phần khẳng định
sự giao lưu văn hóa giữa người Chăm và Trung Hoa có mặt sớm trên dải đất
miền Trung trong lịch sử. Từ cơ sở văn hóa bản đại người Chăm đã tiếp thu có
chọn lọc các yếu tổ văn hóa bên ngoài để xây dựng nên nền văn hóa Champa rực
rỡ.
Những tài liệu
vật chất tìm được qua khai quật các di chỉ cư trú, thành cổ góp thêm nhận thức
về lịch sử giai đoạn đầu của văn hóa Champa. Kết quả các cuộc khai quật tại thành Trà Kiệu, Cổ Lũy, thành
Hồ, Gò Cấm cho thấy đồ gốm gồm bát, đĩa, cốc chân cao, kendi, ngói âm dương,
đầu ngói ống, trụ gốm trang trí có hình dáng, kích thước, đề tài trang trí
tương tự nhau nhưng vẫn thấy nét riêng biệt của từng vùng. Có thể so sánh về
loại hình trên hai nhóm: đồ gốm dân dụng và gốm kiến trúc.
Gốm dân dụng cho thấy về bát gốm có điểm chung
nhất là chân đế thấp, vành miệng loe nhưng chất liệu gốm khác nhau. Gốm vùng
phía bắc( Trà Kiệu, gò Cấm, Cổ Lũy) có
màu đỏ nhạt, xương gốm tinh mịn. Gốm di
tích thành Hồ có màu vàng nhạt, xương gốm dày và thô hơn.
Cốc chân cao tìm
được ở Trà Kiệu có dáng chân cao, đế vững trãi, thân thon dài, miệng loe, trong
khi đó cốc chân cao ở thành Hồ có dáng thấp, chân đế nhỏ, phần thân cốc to
tròn.
Vật liệu gốm
trang trí kiến trúc đáng chú ý có hai loại hình
Trụ gốm trang
trí kiến trúc là loại hình khá độc đáo,
được sử dụng trang trí bờ nóc kiến trúc.
Trụ gốm được chế tác hình khối trụ tròn, đáy bằng hoặc vát.Thân tiện nấc
nhiều lớp, chia thành nhiều phần, thót dần lên trên, kết thúc
đỉnh là khối tròn búp nhọn như búp sen. Lòng trụ gốm rỗng. Kích thước
dài 35cm – 45cm; đường kính chân 10 cm – 13cm, xương gốm dày 0,6cm – 1,0cm. Cho
đến nay có 3 địa điểm xuất hiện loại hình trang trí kiến trúc này trên các địa
phương khác nhau. Dù về hình dáng tương tự nhau nhưng cách thể hiện mỗi vùng
khác nhau.Tại thành Trà Kiệu (Quảng nam) số Lượng hiện vật tại đây tìm được khá
nhiều, nhiều hiện vật còn nguyên vẹn. Nguồn gốc các hiện vật chủ yếu tìm được
qua sưu tầm, do nhân dân địa phương khi canh tác, làm thủy lợi, xây dựng tìm
được. Hiện tại lưu giữ tại nhà thờ Trà Kiệu; Bảo tàng huyện Duy Xuyên. Các cuộc
khai quật tại thành Trà Kiệu, chỉ tìm được mảnh vỡ của loại hình này.Thân trụ
có nhiều vòng trang trí, đầu búp sen thường to mập. Chất liệu gốm thường đỏ
nhạt, xương gốm tinh mịn, độ nung cao khá cứng
Trụ gốm tìm được
trong quá trình khai quật khảo cổ học tại
Cổ Lũy không nhiều. Hiện vật tìm được nằm trong tầng văn hóa với các loại vật
liệu xây dựng khác như đầu ngói ống, ngói âm, dương, gạch. Ở Cổ Lũy trụ gốm được thể hiện cân đối
đẹp.Trụ gốm tìm được trong quá trình khai quật di tích kiến trúc tại thành Hồ.
Hiện vật tìm được nằm trong tầng văn hóa cùng với các loại vật liệu kiến trúc
khác như ngói, đầu ngói ống, đồ gốm vv.. Trụ được chế tác thanh thoát, đầu búp
sen thon gọn. Gốm có màu vàng nhạtTừ những nguồn tư liệu trên cho thấy:về chất liệu như tên gọi loại hình trang trí kiến trúc này nguồn gốc
đất nung. Độ nung già, khá cứng. Màu sắc có màu đỏ sậm, đỏ nhạt, vàng nhạt. So
sánh chất liệu với vật liệu kiến trúc chúng có sự tương đồng, điều đó cho thấy
sản phẩm là gốm địa phương, được sản xuất tại chỗ phục vụ cho xây dựng. Về chức
năng loại hình này dùng để trang trí các công trình kiến trúc có mái. Chúng
được sử dụng gắn trang trí trên bờ nóc và bờ xiên mái. Cuộc khai quật thành Hồ
cho thấy các trụ gốm có đáy cắt vát dùng để gắn trang trí bờ xiên mái. Kỹ thuật
gắn trụ gốm trang trí kiến trúc sử dụng chốt gốm lồng vào ruột trụ tạo nên sự
ổn định. Loại hình trụ gốm trang trí tìm được có không gian phân bố khá rộng từ
Quảng Nam tới Phú Yên. Niên đại tương đồng nhau
khoảng thế kỷ VII – VIII.
Đáng
chú nhất về loại hình đầu ngói ống. Về
hình dáng chung đầu ngói ống hình tròn, kích thước đường kính dao động từ 16cm
– 23 cm. Cá biệt có đầu ngói ống kích thước lớn trên 32cm. Bên cạnh những nét
chung, trang trí đầu ngói ống thể hiện khá khát biệt của mỗi vùng tồn tại. Đầu
ngói ống tìm được tại Trà Kiệu có kích thước trung bình, trang trí có nhiều
loại hình mặt hề, sư tử, khỉ. Đầu ngói
ống tìm được tại Cổ Lũy thì motips mặt hề giữ vai trò chủ đạo. Đầu ngói ống tại
thành Hồ bên cạnh trang trí hình mặt hề thì trang trí hoa văn cánh sen giữ vai
chò chủ đạo. Sự khác nhau về đề tài trang trí phản ánh tính thẩm mỹ của cư dân
khu vực. Những so sánh sơ lược trên cho thấy tính khu vực khu biệt riêng của
từng vùng nhưng sớm có tính thống nhất
của văn hóa Champa như nhận xét không gian lịch sử Champa buổi đầu như
“một không gian chính trị văn hóa quần đảo về mặt địa lý”. Mỗi tiểu vùng văn
hóa có nét đặc trưng riêng bên cạnh tính chất chung của văn hóa Champa.Kết quả
cho thấy về lịch sử, do điều kiện tự nhiên chi phối, có nhiều nhóm người Chăm
thuộc các vùng khác nhau có tính độc lập nhất định, nhưng vẫn có nền tảng văn
hóa chung để sau này thống nhất lãnh thổ quản lý của người Chăm. Những kết quả
khai quật khảo cổ đã góp thêm tài liệu trong giai đoạn lịch sử đầu, người Chăm
có những nhóm người cư trú khác nhau theo khu vực địa lý, những có nguồn gốc
chung, chung cơ sở văn hóa tầng nền. Đây là tiền đề thuận lợi sau này thống
nhất lãnh thổ quản lý của các triều đại. Đúng như văn bia Champa đã từng xác
nhận người Chăm có hai tộc người chính tại văn bia Mỹ Sơn ( Bia Mỹ Sơn XII ;
mặt A) cho biết, buổi đầu lịch sử người Chăm có nhiều bộ tộc sinh sống dải rác
trên địa bàn Trung bộ trong đó có hai bộ
tộc lớn là bộ tộc Cau(Kramuka Vamsa) ở phía nam và bộ tộc Dừa ( NarikelaVamsa)
ở phía bắc.
1.3. Cuộc khai quật trong các năm 1998 – 2000 tại
Trà Kiệu kinh đô cổ của Lâm Ấp cho thấy ở đây có nhiều lớp kiến trúc khác nhau,
lớp sớm có thể vật liệu là tre gỗ . Do bị cháy nên toàn bộ di tích chứa rất
nhiều than củi, hố chôn cột gỗ và cột tre được tìm thấy minh chứng cho lớp kiến
trúc này.Lớp dưới tìm được một hệ thống cột trụ
móng của các công trình kiến trúc, lớp kề cận kiến trúc tre gỗ .Cột hình
trụ tròn là móng trụ sỏi sông trộn đất
sét đá vôi, trụ đá tự nhiên; tiếp đó là hệ thống trụ gạch ăn sâu trong lòng đất
chịu tác dụng lực nén từ các cột của công trình kiến trúc. Lớp trên cùng
là hệ thống móng gạch . Những phát hiện trên cho thấy ở Trà Kiệu có 3 lớp kiến
trúc tương ứng với 3 thời kỳ khác nhau trong vật liệu xây dựng. Lớp sớm nhất sử
dụng vật liệu nhẹ tre gỗ. Lớp tiếp theo sử dụng vật liệu tự nhiên : đá, cuội
sông, đất sét và lớp cuối cùng sử dụng chất liệu gạch.Dựa vào khoảng cách các
trụ móng chúng tôi cho rằng đây là một kiến trúc có bình đồ hình chữ nhật với
khoảng cách gian là 3,2m, lòng rộng 4,2m. Với phần trụ móng chịu lực vững chắc
có thể công trình kiến trúc này cao hai tầng với bộ khung là vật liệu gỗ, mái
lợp ngói âm dương.Theo nhận xét của Ian Glove, thành viên đoàn khai quật “ địa
điểm khai quật Hoàn Châu( di tích Trà Kiệu) sâu hơn 3m với những sàn gạch bị
phá nặng nề nằm bên trên, được lót bằng những lớp sạn và cát, và còn bảo quản
được một loạt những cột trụ bằng gạch và đá đào được ở những địa điểm sâu ít
nhất là một mét và chúng tôi tin đó là những đế trụ chống đỡ một cột trụ gỗ lớn
để gánh lấy một mái ngói nặng… vào cuối mùa khai quật năm 2000 đã có đủ dữ kiện
để khôi phục một phần chính của một sảnh đường bằng cột với nền gạch không hoàn
chỉnh…”.Kết quả bước đầu cho biết có một nền kiến trúc Champa buổi đầu với vật
liệu chủ yếu là gỗ, tre, những vật liệu tự nhiên.Bên cạnh dấu vết kiến trúc ở
Trà Kiệu còn tìm được nhiều vật liệu kiến trúc khác như đầu ngói ống trang trí
mặt hề, sư tử, trụ gốm con tiện trang trí kiến trúc, ngói âm dương vv.. cho
biết thời kỳ đầu trong văn hoá Chăm, người Chăm đã sản xuất nhiều loại vật liệu
đất nung phục vụ xây dựng các công trình kiến trúc cuả mình trong đó có các kiến
trúc tín ngưỡng.Như vậy có thể thấy có một nền kiến trúc bản
địa Champa, bên cạnh những công trình kiến trúc tháp tôn giáo hiện còn. Nền
kiến trúc này bên cạnh những yếu tố hội
nhập từ Trung Hoa đưa lại như đầu ngói ống mặt hề, người Chăm đã tiếp thu sáng
tạo nên sản phẩm mang đậm văn hóa của
tộc người như đầu ngói ống trang trí mặt
Sư tử, biểu tượng của kinh thành Simhapura.Giai đoạn đầu của lịch sử Champa là giai đoạn kế thừa, chọn lọc các yếu tố
bên ngoài đưa vào để hình thành nên lịch sử và văn hóa Champa. Cùng với những
sắc thái văn hoá bản địa, chịu ảnh hưởng của văn hoá Hán Hoa, khi giành được độc lập quốc gia này có điều kiện mới chịu ảnh hưởng của một nền văn hoá
mới - Văn hoá Ấn độ .“Lịch sử của 4 thế
kỷ này trên thực tế rất rắc rối và người ta luôn không rõ người Lâm Ấp nguyên
thuỷ đã theo đạo Hindu hay chưa và bắt đầu từ khi nào một vương triều theo
Hindu giáo…”
1.4. Kiến trúc
tháp Champa
Cũng như các tộc người khác, người Chăm đã có một nền kiến
trúc được dựng xây và phát triển khá đa dạng trên nhiều loại hình theo suốt
chiều dài lịch sử: kiến trúc dân dụng, kiến trúc tôn giáo. Do biến động trong
lịch sử, sự can thiệp của tự nhiên cho đến nay hầu hết các kiến trúc chỉ để lại
dấu vết, những mảnh
vụn quá khứ để lại như hệ thống móng, vật liệu xây dựng,
trang trí kiến trúc. Điều may mắn nhất kiến trúc Champa còn để lại là hệ thống
kiến trúc tháp tôn
giáo khá đậm
đặc, trên nhiều vùng đất với niên đại kéo dài trong lịch sử.Theo điều tra cơ
bản hiện nay trên địa bàn 15 tỉnh miền Trung và Tây Nguyên hiện có trờn 150 địa
điểm có di tích và phế tích đền tháp Champa trong đó có 24 nhóm tháp và tháp
còn tồn tại ở mức độ khác nhau với tổng số khoảng trên 60 đền tháp. Kiến trúc
Champa được phát hiện qua khai quật hiện còn chỉ là phần còn lại của tổng thể
kiến trúc được dựng xây trong lịch sử.
Kết quả khai quật cho thấy nổi bật lên những vấn đề sau:
Những công trình kiến trúc hiện còn chỉ là
phần còn lại của tổng thể các công trình kiến trúc trước kia. Mỗi địa điểm là
một nhóm kiến trúc với nhiều chức năng khác nhau. Những kiến trúc hiện còn là
những tháp trung tâm( Kalan) đền thờ chính, bên cạnh là các công trình kiến
trúc phụ trợ mà qua khai quật chỉ còn lại dấu tích móng.Những nhóm tháp hiện còn 3 chiếc như Chiên Đàn, Khương Mỹ,
Dương Long cho thấy ở đây có cả một hệ thống kiến trúc bao quanh gồm tháp cổng,
nhà hành lễ hay các công trình phụ trợ. Những tháp còn 01 chiếc như Mỹ Khánh,
Bình Lâm, Cánh Tiên, YangProng, Kbeng vv... đều để lại các công trình kiến trúc
liên quan như bệ thờ ngoài trời, nhà hành lễ, vòm cửa dẫn phía trước vv.... bao
quanh hệ thống kiến trúc này là hệ thống tường bao tạo nên không gian khép kín,
“ không gian thiêng”. Kết quả khai quật các khu tháp Mỹ Sơn G, Mỹ Sơn F, Chiên
Đàn
Kể từ khi giành
được độc lập, người Chăm đã chọn mô hình tổ chức theo xã hội Ấn Độ được các
thương nhân và tu sĩ Ấn qua thương mại đưa lại.Họ đã tiếp thu tinh thần Ấn Độ
giáo phù hợp với tín ngưỡng tộc người đã
dần hình thành nên một nền văn hóa Champa mang đậm tinh thần Ấn độ. Mảnh gốm
Akendu tìm được tại Trà kiệu niên đại thế kỷ II – III đã nói lên sự có mặt sớm
của Ấn Độ trong vùng cư dân Chăm cư trú..Tinh thần tôn giáo văn hóa Ấn Độ được
thể hiện rõ nét qua các kiến trúc Champa. Trước hết sự có mặt của các công
trình tôn giáo Champa theo tinh thần tôn giáo Ấn Độ được kế thừa từ các đền thờ
tín ngưỡng Champa. Các kiến trúc Champa như đền thờ Mỹ Khánh, dấu vết đền thờ
tại Mỹ Sơn, đền thờ Mỹ Sơn E1.Các cuộc khai quật tại Mỹ Khánh, Mỹ Sơn cho
biết khi tôn giáo Ấn Độ ảnh hưởng vào
vùng đất nơi đây đã có tín ngưỡng cư dân bản địa là các đền thờ các vị thần tự
nhiên. Sự hội nhập của tôn giáo Án Độ đã
kế thừa cơ sở tôn giáo tầng nền từ các đền thờ. Từ dạng kiến trúc đền thờ những
thế kỷ sau mới chuyển dạng sang các kiến trúc tháp thờ. Sự có mặt của các kiến
trúc còn lại như tháp Mỹ Sơn C3, nhóm tháp PoDam đã nói lên tiến trình phát
triển đó. Mặc dù vậy sự chuyển dạng kiến trúc này cũng không đều nhau về thời
gian qua các vùng. Nếu kiến trúc Hòa Lai ở phía nam đã chuyển sang dạng tháp
thờ thì kiến trúc vùng phía bắc vẫn còn dạng đền thờ như đền Mỹ Khánh.Sự bắt
nguồn từ các đền thờ chuyển sang tháp thờ cho thấy những kiến trúc Champa hiện
có hai nhóm: Nhóm kiến trúc tháp thờ có bình đồ hình vuông chiếm chủ đạo. Nhóm
đền thờ có mặt bằng hình chữ nhật như tháp Mỹ Khánh, Kbeng. Bên cạnh đó là hệ
thống kiến trúc phụ trợ cũng có mặt bằng hình chữ nhật
Kiến trúc Champa
được xây dựng theo mô hình kiến trúc Ấn Độ( Srikhara), kiến trúc bộ mái nhiều
tầng, thờ biểu tượng các vị thần Ấn Độ giáo nhưng mang tính bản địa đặc sắc.
Kết qua khai quật các kiến trúc tháp cho thấy về mặt bằng kiến trúc có hai loại
: mặt bằng hình vuông và mặt bằng hình chữ nhật. Mặt bằng hình chữ nhật gồm các
kiến trúc có dạng đền thờ như các tháp
Mỹ Khánh, Hòa Lai. KBeng, An phú. Giai đoạn sau
mặt bằng hình chữ nhật chủ yếu sử dụng xây dựng các công trình phụ trợ
như nhà dài( Madapa) như các dấu vết tìm
được tại Chiên Đàn, Dương Long. Mặt bằng kiến trúc hình vuông chiếm vai trò chủ
đạo trong các kiến trúc tháp thờ chính
như Chiên Đàn, Mỹ Sơn F1, Mỹ Sơn G. Điều đóng góp mới qua khai quật lộ
rõ các mặt bằng kiến trúc như Dương Long là mặt bằng tháp hình vuông, thân hình
bát giác khác hẳn nguồn tài liệu công bố trước đây. Tháp Chiên Đàn, Khương
Mỹ, Bánh Ít cho thấy hệ thống chân đế
tháp có trang trí ốp chân đá mà các tài liệu trước kia chưa được biết đến.
Vật liệu xây
dựng chủ yếu bằng gạch, gạch Champa có đặc trưng riêng: kích thước thường lớn
trung bình dài 28cm – 34cm, rộng 18 cm – 22cm, dày 5cm – 7cm. Gạch có độ nung
khá cao, độ hút ẩm lớn, trong lõi thường có màu xám nhạt.
Những kiến trúc xây dựng trước thế kỷ X vật
liệu chủ yếu là gạch. các tháp có niên đại sớm được khai quật như Mỹ Khánh, Hòa
Lai Khương Mỹ hầu như ít có sự tham gia của chất liệu đá. Kỹ thuật xây mài chập
truyền thống, các viên gạch liền khít
nhau như không có chất kết dính. Qua tài liệu thu được cho thấy các viên gạch
có sử dụng chất kết dính là nhựa thực vật.
. Những tháp xây
dựng sau thế kỷ X như Chiên Đàn, Dương Long, Cánh Tiên sự tham gia của chất
liệu đá khá phổ biến. Đá được sử dụng tham gia vào những bộ phận kiến trúc quan
trọng như cột cửa, mi cửa, bậc cửa, ốp trang trí chân đế tháp. Giai đoạn sau
tháp Champa được sử dụng nhiều hơn đặc biệt khi có sự ảnh hưởng của văn hóa
Khmer. Hệ thống đá trang trí các tháp Dương Long, Bánh ít, Chiên Đàn đã cho
thấy đá sử dụng nhiều. Các kiến trúc khác như Cánh Tiên, Khánh Vân, Bình Lâm đá
được sử dụng trang trí trên các bộ phận nóc tháp như đá điểm góc. Đá được sử
dụng với kỹ thuật gá lắp mộng khớp liên kết nhau thành khối vững chắc đảm bảo
độ ổn định của kiến trúc.
Những kết quả
khai quật mới đã làm rõ thêm các giai đoạn kiến trúc trong lịch sử Champa. Có
thể phác dựng các chặng đường hình thành nên các giai đoạn nghệ thuật kiến trúc
Champa.
Giai đoạn trước thế kỷ VIII, kiến trúc tôn
giáo Champa có nguồn gốc từ các cơ sở tín ngưỡng bản địa, sự gia nhập của tôn
giáo Ấn Độ vào tín ngưỡng bản địa tạo
nên các đền thờ( Templ) có mặt bằng kiến trúc hình vuông, đa phần được xây dựng
bằng vật liệu nhẹ( gỗ lá), sau này dần được thay thế bằng vật liệu bền vững(
gạch). Văn bia Mỹ Sơn cho biết vào cuối thế kỷ VII vua Bhravacrman I mới cho
xây dựng các ngôi đền bằng gạch tại thánh địa này. Di tích Mỹ Khánh, Mỹ Sơn F1(
giai đoạn sớm), PoDam đã cho thấy mặt bằng kiến trúc tháp chính loại hình này.
Kiến trúc dạng đền thờ sau này còn được tiếp tục có mặt tại KBeng.
Sau thế kỷ IX sự phát triển rầm rộ của các
kiến trúc Champa, những công trình kiến trúc chính đều có dạng tháp thờ( Tour)
với mặt bằng kiến trúc hình vuông. Được xây dựng bằng vật liệu bền vững, bộ mái
tháp vòm cuốn, được trang trí mỹ thuật đẹp với vòm mái nhiều tầng, hệ thống
tháp góc phụ trang trí. Trang trí tháp được chú trọng trên từng bộ phận kiến
trúc: đế tháp, trang trí vòm cửa, mi
cửa, đá điểm góc, chóp tháp. Sự thay đổi khối kiến trúc, họa tiết trang trí đã
làm nên phong cách nghệ thuật các giai đoạn kiến trúc khác nhau theo những thời
kỳ lịch sử. Những kết quả khai quật đã làm rõ thêm tư liệu về các giai đoạn
kiến trúc, đó là sự đa dạng thể hiện trong các phong cách nghệ thuật.Tài liệu
thu được qua khai quật đã khẳng định truyền thống nghệ thuật kiến trúc Champa.
Một số kiến trúc trước đây khi nghiên cứu được cho rằng được xây dựng do ảnh
hưởng của các kiến trúc bên ngoài đưa lại, kết quả cho thấy, mặt bằng, kỹ
thuật, vật liệu xây dựng kiến trúc Champa được phát triển lien tục, những vẫn
tuân theo truyền thống để khẳng định
kiến trúc Champa có bản sắc riêng.
1.5. Điêu khắc Champa
Mỹ thuật trang
trí các tháp qua những hiện vật thu được vô cùng phong phú có thể thấy trên hai
loại chất liệu khác nhau. Trang trí chạm
khắc trực tiếp lên khối gạch xây như các tháp Mỹ Khánh, Vân Trạch Hòa, Hòa Lai,
Chiên Đàn, An Phú thể hiện các hình ảnh thú linh vật( Voi, sư tử), hoa văn
xoắn, cánh sen vv…
Đây là đặc trưng
riêng của mỹ thuật điêu khắc trên chất liệu gạch Champa. Để thực hiện chủ đề
trang trí, gạch được xây khối chập liền khít tạo nền trang trí. Đề tài được thể
hiện đa dạng. Những hình ảnh thần linh theo Ấn Độ Giáo, hay những họa tiết hoa
văn thực vật được thể hiện trên các kiến trúc đã khẳng định nét độc đáo của
nghệ thuật điêu khắc Champa và được các nhà nghiên cứu cho rằng“ độc đáo nhất
Đông Nam Á”
Điêu khắc trên
đá được sử dụng không nhiều, chủ yếu trên một số bộ phận khối kiến trúc: trang
trí trên các ốp chân tháp bậc cửa, cột cửa, mi vửa, vòm cửa, đá điểm góc, chop
tháp. Những điêu khắc đá tìm được tại: Dương Long, Bánh Ít, Chiên Đàn, đã cho
thấy sự phong phú và những chuyển biến về đề tài, phong cách thể hiện trên điêu
khắc đá những tác phẩm tìm được ở đây. Đặc biệt hơn tháp Khương Mỹ xuất hiện
dải trang trí chất liệu đá xen với chất liệu gạch hoàn chỉnh nói lên sự sáng
tạo của người Chăm trong dựng xây kiến trúc.
Nghệ thuật điêu
khắc đá Champa được thể hiện theo hai xu hướng chính. Nghệ thuật truyền
thống thể hiện những đề tài theo nội
dung tôn giáo văn hóa Ấn Độ. Đó là hình ảnh các vị thần Ấn Độ giáo, những vật
linh thú liên quan đến thần thoại. Hình ảnh thần linh đó được thể hiện theo các
phong cách khác nhau mang tính thời đại tạo tác để hình thành nên các phong
cách nghệ thuật điêu khắc tương ứng với các thời kỳ. Tính truyền thống là yếu
tố chủ đạo chi phối theo suốt thời kỳ của văn hóa Champa trong lịch sử. Những
tác phẩm điêu khắc đá Champa tìm được qua khai quật và điều tra khảo sát phản ánh đặc trưng các giai đoạn nghệ thuật điêu
khắc đá Champa. Những tác phẩm điêu khắc trước thế kỷ X thường có kích thước
nhỏ, họa tiết tỉ mỉ, khối nhỏ gọn đẹp, chi tiết nuột nà. Đây là hằng số ảnh
hưởng, chi phối trong nghệ thuật Champa
mà kết quả khai quật tại tháp Chiên Đàn có niên đại thế kỷ XII vẫn được
sử dụng. Những thế kỷ tiếp điêu khắc đá Champa
có những tác phẩm kích thước lớn.
Đề tài thể hiện các tác phẩm thống nhất theo nội dung văn hóa, tôn giáo Ấn Độ
là hình ảnh các vị thần, các vật linh cùng những họa tiết hoa văn đặc trưng
Champa.
Trong quá trình
tồn tại và phát triển, kiến trúc tháp Champa ngoài yếu tố truyền thống về mô
hình, khối kiến trúc, họa tiết trang trí thì có mối giao lưu, hội nhập với các
yếu tố kiến trúc bên ngoài, những nền văn hóa cùng ảnh hưởng từ văn hóa Ấn Độ.
Cuộc khai quật tháp Dương Long, Cánh Tiên cho thấy, tháp Dương Long có mô hình
kiến trúc tháp ảnh hưởng từ kiến trúc Khmer như bình đồ thân bát giác, bộ mái
tròn thu nhiều tầng, hay kiến trúc tháp Cánh Tiên hệ thống tháp góc nhiều tầng
trang trí trên các tầng mái. Những ảnh hưởng văn hóa này còn thể hiện rõ trên
các bộ phận kiến trúc, khối kiến trúc, trang trí kiến trúc hiện còn thuộc phong
cách nghệ thuật kiến trúc tháp Bình Định như tháp Đôi.
Trong quá trình
tồn tại và phát triển, điêu khắc đá Champa có sự ảnh hưởng từ nghệ thuật điêu
khắc đá từ các nền văn hóa bên ngoài. Giai đoạn thế kỷ IX – X có sự ảnh hưởng
của điêu khắc JaVa trên các tác phẩm điêu khắc nổi tiếng như bệ thờ Vân Trạch
Hòa, hay điêu khắc trang trí chân tháp Khương Mỹ. Đặc biệt là tư thế tượng ngồi
kiểu Java khá phổ biến với hai chân chống song song. Những thế kỷ sau vào thế
kỷ XIII ảnh hưởng của điêu khắc Khmer khá rõ nét trên các kiến trúc tháp Bánh
Ít, Dương Long với các môtip như rắn Naga nhiều đầu hay tượng Garuda đứng ưỡn
ngực.Bên cạnh sự tiếp thu hội nhập các yếu tố nghệ thuật bên ngoài điêu khắc
Champa còn ảnh hưởng lan tỏa đến các nền văn hóa tộc người xung quanh. Với các
tộc người sinh sống ở Tây Nguyên, những tượng chim đất nung thuộc văn hóa Tây
Nguyên gia nhập vào kiến trúc Champa như tháp Yang Prong, hay những tượng
Champa có mặt tại Tây Nguyên mang dáng dấp
nghệ thuật của các tộc người sinh sống ở đây. Sự lan tỏa này còn thể
hiện trong các tác phẩm điêu khắc đá tộc người Việt vào thế kỷ XI như các tác
phẩn Garuda, Krisna tại chùa Phật tích, tượng Khỉ tháp Chương Sơn vv....
Do những biến động của xã hội, phần đất quản
lý của người Chăm dần hội nhập vào lãnh thổ dân tộc nhưng nghệ thuật điêu khắc
truyền thống của người Chăm vẫn có sức sống riêng, những tượng thờ các vị vua,
hoàng Hậu vẫn được khắc tạc theo truyền thống nghệ thuật, tôn giáo Champa.
Tượng người trên bệ thờ, các họa tiết
hoa văn trang trí, hoa văn xoắn, núm vú vv... quen thuộc vẫn được sử dụng. Các
tượng Kuts vẫn được tạc dựng nối dài nền nghệ thuật điêu khắc Champa kéo dài
gần 2 thiên niên kỷ với sự độc đáo riêng, đặc sắc, mang đậm bản sắc tộc người –
chủ nhân sáng tạo ra.
1.6 Đồ gốm
Champa được biết đến sớm với nhiều loại hình khác nhau được sản xuất phục vụ
cho đời sống cư dân. Những kết quả khai quật các lò nung gốm cho biết, đồ gốm
Champa được sản xuất theo kỹ thuật lò nung khá muộn vào thế kỷ IX - X( lò gốm
núi Chồi) và đặc biệt phát triển vào thế kỷ XIII - XIV. Nếu lò nung gốm giai
đoạn sớm sản phẩm tìm được là các tác phẩm Phật giáo, thì những lò nung gốm giai
đoạn sau nung nhiều loại sản phẩm khác nhau: Vật liệu trang trí kiến trúc, đồ
gốm dân dụng. Sự phát triển của nghề sản xuất gốm sau thế kỷ X là sự kế thừa
của kỹ thuật nung gốm giai đoạn trước cùng sự hội nhập các yếu tố kỹ thuật bên
ngoài đưa lại tạo nên sức sống cho nghề thủ công này. Sản phầm gốm Champa thời
kỳ này không những đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong lãnh thổ mà còn là hàng hóa
trao đổi với nhiều nước trong khu vực.
2.Văn hóa Champa là một nền văn hóa
lớn, độc đáo giữ vai trò chủ đạo theo suốt chiều dài lịch sử văn hóa miền
Trung. Đây là nền văn hóa có nguồn gốc bản địa, được kế thừa, phát triển từ văn
hóa Sa Huỳnh trước đó. Trong quá trình tồn tại và phát triển, sự ảnh hưởng của
văn hóa tôn giáo Ấn Độ giữ vai trò quan trọng hình thành nên bản sắc văn hóa
Champa theo suốt chiều dài lịch sử khi vùng đất này sát nhập vào lãnh thổ chung
dân tộc. Những di tích cư trú như Trà Kiệu, Nam Thổ Sơn, Cổ Lũy, thành Hồ đã
cho thấy sự có mặt của gốm Sa Huỳnh lớp dưới đã minh chứng điều đó. Văn hóa
Champa phong phú, đa dạng về nhiều loại hình,
trong đó nổi bật lên là kiến trúc tôn giáo và điêu khắc. Nguồn gốc các
kiến trúc bắt nguồn từ các nơi thờ tự tôn giáo bản địa kết hợp với kiến trúc
tôn giáo Ấn Độ hình thành nên diện mạo kiến trúc tôn giáo Champa theo suốt
chiều dài lịch sử. Kiến trúc Champa có nhiều loại hình như tháp thờ, nhà dài,
trong đó kiến trúc tháp thờ giữ vai trò chủ đạo với hai mặt bằng hình chữ nhật
và hình vuông. Bình đồ kiến trúc tháp thờ Champa có sự chuyển biến từ bình đồ
hình chữ nhật giai đoạn sớm như đền tháp Mỹ Khánh sang kiến trúc bình đồ hình vuông như các
tháp giai đoạn sau được khai quật như Khương Mỹ, Chiên Đàn, Bánh Ít, Mỹ Sơn F1.
Vật liệu kiến trúc Champa chủ yếu là gạch xây với kỹ thuật mài chập là chủ yếu
mà điển hình là các tháp Mỹ Khánh Hòa lai, Po Dam. Trong quá trình phát triển
do giao lưu với văn hóa bên ngoài vật liệu đá dần tham gia vào kiến trúc giai
đoạn sau như các tháp Dương Long, tháp Đôi. Điều đặc biệt nhất qua các cuộc
khai quật lần đầu xuất lộ tài liệu trang trí đế tháp từ chất liệu gạch và đá mà
trước đây khi nghiên cứu các nhà nghiên cứu trước chưa tiếp cận. Sự phát hiện
này góp phần cho việc nhận diện tổng thể các bộ phận kiến trúc Champa, nhận thức mới về nghệ thuật
kiến trúc tháp trên các tháp Chiên Đàn, Khương Mỹ, Bánh Ít. Về những tác phẩm
điêu khắc những hiện vật tìm được cho thấy điêu khắc đá Champa có cả một quá
trình phát triển. Nội dung thể hiện chủ đạo là hình ảnh các vị thần liên quan
đến văn hóa tôn giáo Ân Độ. Nội dung tôn giáo này chi phối toàn bộ những tác
phẩm điêu khắc Champa trong nhiều giai đoạn và được thể hiện với nhiều phong
cách nghệ thuật khác nhau. Nhiều tác phẩm tìm được có thể được coi là điển hình
của một giai đoạn nghệ thuật Champa như điêu khắc tại tháp Khương Mỹ, Chiên
Đàn, Bánh ít. Trong quá trình phát triển điêu khắc đá Champa có những yếu tố
văn hóa Khmer hội nhập về đề tài và phong cách thể hiện tạo nên sự đa dạng
trong nghệ thuật như tháp Dương Long, tháp Đôi, hay các yếu tố văn hóa cư dân
bản địa Tây Nguyên cũng gia nhập vào tạo nên sự phong phú đa dạng của các tác
phẩm hiện biết như tháp Yang Prong. Đặc biệt giai đoạn cuối của nghệ thuật
Champa, bên cạnh yếu tố truyền thống thì các yếu tố tộc người cũng thể hiện rõ
qua các tượng thờ các vị vua, Hoàng Hậu cuối cùng của Champa. Tất cả hiện vật
biết đến cho thấy văn hóa Champa có cả
quá trình phát triển lâu dài, liên tục, mỗi thời đại bên cạnh những yếu tố
truyền thống nền văn hóa này lại tiếp thu những ảnh hưởng bên ngoài tạo nên một
chỉnh thể văn hóa Champa thống nhất mà đa dạng trước khi hội nhập vào nền văn
hóa chung dân tộc./.