VÀI NÉT VỀ NHỮNG ĐỒNG TIỀN THỜI LÝ
( 1009 -1225)
Những đồng tiền được đúc và đưa ra
lưu hành của các triều đại buổi đầu độc lập dưới triều Đinh – Lê đã đặt nền móng
vững chắc cho lịch sử tiền tệ Việt Nam. Sự có mặt của các đồng tiền đã góp phần
khẳng định chủ quyền dân tộc – chủ quyền về tài chính. Những đồng tiền độc lập, tự chủ đã góp phần gìn giữ nền độc lập dân tộc và xây dựng đất nước.
Sau hai triều đại (Đinh – Tiền
Lê) xây dựng và củng cố nền độc lập tự chủ dân tộc kéo dài hơn 40 năm (968 –
1009), những đồng tiền Việt Nam đúc dần có ảnh hưởng rộng lớn trong cuộc sống của
dân cư.
Năm
1010, khi Lý Công Uẩn lên ngôi, tháng 2
khi về thăm quê hương đã “ ban tiền, lụa cho các bô lão trong làng theo thư bậc
khác nhau - Đại Việt sử ký toàn thư tập I- tr 240”. Tháng 7, dời đô về Thăng
Long “nơi thắng địa, bốn phương tụ hội.”, xây dựng một trung tâm kinh tế, chính
trị, văn hóa của cả nước, ông “xuống chiếu phát 2 vạn quan, thuê thợ làm chùa ở
phủ Thiên Đức- Đại Việt sử ký toàn thư tập I- tr 241 ” Những tư liệu cho thấy
lúc đó trong cung Vua đã có kho tiền lớn và tiền được sử dụng khá rộng rãi
trong dân.Vương triều Lý trị vì đất nước
215 năm (1009 -1225), kéo dài 8 đời vua mở đầu là Lý Công Uẩn, kết thúc là Lý
Huệ Tông là một thời kỳ phát triển rực rỡ trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hóa xã hội của dân tộc. Sự phát triển ấy được thể hiện qua hầu như các vua
nhà Lý đều đúc tiền để lưu thông trong nước và buôn bán.Trong 8 đời vua nhà Lý
hiện biết có 5 đời với 8 lần đúc tiền
mang niên hiệu của mình.
I Những đặc trưng cơ bản của tiền thời Lý.
1. Lý Công Uần lên ngôi lấy niên hiệu là Thuận
Thiên kéo dài 19 năm(
1010 -1029), thời kỳ này ông cho đúc tiền Thuận Thiên Đại Bảo.
Tiền đúc
hình tròn, đường kính khoảng 2,5cm; bên ngoài có vành trơn. Chính giữa là lỗ
vuông có gờ nổi, chữ đúc nổi đối xứng nhau qua tâm, cách đọc trên trước
dưới sau, phải trước trái sau. Mặt sau có đúc chữ Nguyệt. Chữ đúc nổi nét chữ
khá gọn sắc.
|
Mặt
trước và sau tiền Thuận Thiên Đại Bảo
|
Trong 19 năm cầm quyền, cho đến nay sử liệu chưa
cho biết Lý Công Uẩn có bao nhiêu lần đúc tiền, nhưng cho đến nay chỉ tìm thấy
một loại tiền duy nhất và số lượng chưa nhiều lắm.
2. Năm
1029 Lý Thái Tông lên nối ngôi, lấy niên hiệu là Thiên Thành, trị vì 26 năm (1054)
6 lần đổi niên hiệu và sử cũ ghi lại có 3 lần đúc tiền. Năm 1039 đổi niên
hiệu là Càn Phù Hữu đạo, niên hiệu này kéo dài đến năm 1042. Thời gian này vua
Lý cho đúc tiền Càn Phù Nguyên bảo.
Tiền đúc
hình tròn, đường kính 2,15cm – 2,35cm. Vành ngoài khá rộng để trơn, chính giữa
là lỗ vuông, có gờ nổi. Mặt trước chữ viết đối xứng qua tâm, cách đọc vòng
tròn theo chiều kim đồng hồ. Chữ viết gọn,
|
Tiền
Càn Phù Nguyên Bảo
|
nét sắc
sảo, chất lượng đồng tốt. Mặt sau để trơn nhẵn. Năm 1042 Lý Thái Tông “ đổi niên hiệu là Minh Đạo
và đúc tiền Minh Đạo- Đại Việt sử ký toàn thư tập I- tr 263”. Năm 1043 “Năm ấy
lại đúc tiền Minh Đạo ban cho các quan văn võ- Đại Việt sử ký toàn thư tập I-
tr 245”. Trong hai năm Lý Thái Tông cho đúc tiền hai lần chứng tỏ nhu cầu tiền
bạc trao đổi đòi hỏi rất lớn. Những đồng tiền này ngày nay được khảo cổ học biết
đến với hai loại khác nhau. Một loại nét chữ nổi to, thô; một loại nét chữ gọn mảnh
mai hơn. Nhìn chung tiền Minh Đạo Nguyên Bảo được đúc có hình tròn, đường kính
2,15cm – 2,35cm. Vành ngoài nhỏ trơn nhẵn. Giữa lỗ vuông có gờ nổi. Chữ viết đối xứng qua tâm. Cách đọc vòng tròn
theo
chiều kim đồng hồ. Mặt sau để trơn nhẵn. Cuối năm 1044 Lý Thái Tông lại đổi
niên hiệu là Thiên Cảm Thánh Vũ sử dụng đến năm 1049. Thời kỳ này nhà Lý có đúc
tiền. Sử liệu Việt Nam không ghi chép nhưng sử liệu nhà
|
Mặt
trước và sau tiền Minh Đạo Nguyên Bảo
|
Nam Tống cho biết “chữ trên tiền Thiên Cảm Nguyên Bảo có hai loại to nhỏ khác nhau, nét
chữ khỏe khoắn, mạnh mẽ...” Đây cũng có lẽ là những đồng tiền được đúc theo
truyền thống tiền Minh Đạo Nguyên Bảo. Loại tiền Thiên Cảm Nguyên Bảo đúc hình
tròn, vành ngoài rộng để trơn. Giữa lỗ vuông có gờ nổi. Mặt trước chữ viết đối xứng qua tâm, cách đọc
vòng tròn theo chiều kim đồng hồ
. Mặt
sau để trơn. Tiền được tìm thấy có hai
mẫu lớn nhỏ khác nhau. Loại lớn đường kính 2,37cm – 2,4cm; loại nhỏ đường
kính 2,1cm. Chữ viết nổi gọn, nét sắc
sảo. Loại mặt sau không để trơn có đúc chữ “Càn vương”. Theo một cách lý
|
Mặt
trước và sau tiền Thiên Cảm Nguyên Bảo
|
giải, đây
là loại tiền Lý Thái Tông cho đúc để kỷ niệm
con trai là Lý Nhật Trung được triều đình phong Càn Vương (?)
3. Lý Nhân Tông lên
ngôi 1072, ở ngôi 55 năm (1127) có 5 lần
đổi niên hiệu. Thời kỳ này cho đến nay, khảo cổ học tìm được tiền Thiên phù Nguyên Bảo, niên hiệu
của Lý Nhân Tông (1120 – 1126 ;Thiên Phù Duệ Vũ và 1127-Thiên Phù Khánh Thọ).
Tiền Thiên Phù Nguyên Bảo chắc được đúc từ năm
1120 – 1127.Tiền được đúc hình tròn, đường kính 2,1cm – 2,25cm. Vành ngoài rộng
phẳng. Giữa có lỗ vuông, gờ nổi rõ. Mặt
trước chữ viết đối xứng qua tâm, cách đọc vòng tròn
|
Mặt
trước và sau tiền Thiên Phù Nguyên Bảo
|
theo
chiều kim đồng hồ. Chữ đúc nổi, nét gọn. Mặt sau để trơn nhẵn.
4. Lý Anh Tông lên ngôi năm
1139- 1175 với 3 lần đổi niên hiệu. Dù
sử liệu không ghi chép về việc đúc tiền, những khảo cổ học phát hiện thời kỳ
này có 2 loại tiền được đúc mang niên hiệu
của thời kỳ này.
- Tiền Đại Định Thông Bảo được đúc trong niên hiệu Đại Định của Lý
Anh Tông (1140 -1162). Tiền được đúc hình tròn, đường kính loại lớn
|
Tiền Đại
Định Thông Bảo và
Chính Long Nguyên Bảo
|
3,75cm,
loại nhỏ 2,15cm. Vành biên tiền nhỏ phẳng. Giữa lỗ hình vuông với gờ nổi lên. Mặt
trước chữ viết đối xứng qua tâm. Cách đọc trên trước dưới sau, phải trước dưới
sau. Chữ viết gọn đẹp sắc sảo.Mặt sau thường
để trơn
- Tiền Chính Long Nguyên Bảo được đúc trong
niên hiệu Chính Long Bảo ứng của Lý Anh Tông (1163 – 1174). Tiền đúc hình tròn,
đường kính 2,02cm – 2,53cm. Viền biên tiền nhỏ phẳng. Giữa có lỗ hình vuông, gờ
nổi . Mặt trước viết chữ đối xứng qua tâm. Cách đọc vòng tròn theo chiều kim đồng
hồ. Mặt sau để trơn phẳng.
5. Lý Cao
Tông lên ngôi năm 1176, trị vì đến năm 1210. Trong 35 năm trị vì có 4 lần đổi
niện hiệu, trong đó có 4 lần đúc tiền theo niên hiệu
- Tiền
Trị Bình Thông Bảo được đúc theo niên hiệu Trị Bình Long ứng (1205 – 1210). Tiền
đúc hình tròn, đường kính 2,4cm. Vành biên rộng phẳng; giữa có lỗ vuông với gờ
nổi. Mặt trước chữ viết đối xứng qua tâm, cách đọc trên trước dưới sau, phải trước
trái sau. Mặt sau để trơn phẳng.
Trị
Bình Thông Bảo
|
Trị Bình Nguyên Bảo
|
Trị Bình Thánh Bảo
|
- Tiền
Trị Bình Nguyên Bảo được đúc theo niên hiệu Trị Bình Long ứng. Tiền đúc hình
tròn, đường kính 2,03cm – 2,13 cm. Vành biên hẹp; giữa có lỗ vuông , gờ viền nổi.
Mặt trước chữ viết đối xứng qua tâm, cách đọc vòng tròn theo chiều kim đồng hồ.
Mặt sau lưng phẳng nhẵn.
- Tiền
Trị Bình Thánh Bảo đúc theo niên hiệu Trị Bình Long ứng. Tiền đúc hình tròn, đường
kính 2,03 – 2,13cm. Vành biên tiền rộng và phẳng, giữa có lỗ vuông, có gờ nổi. Mặt
trước chữ viết đối xứng qua tâm, cách đọc vòng tròn theo chiều kim đồng hồ. Mặt
sau trơn nhẵn.
Sự xuất hiện của 3 đồng tiền thời Lý Cao Tông
dưới niên hiệu Trị Bình Long ứng ngắn ngủi ( 1205 -1210) đã khiến cho các nhà
nghiên cứu nghi ngờ về tính chân thực của nó, nhưng có lẽ đây là những giả thiết
cần nghiên cứu sau hơn về tiền tệ thời Lý khi có tài liệu. Có một loại tiền
Thiên Tư Nguyên bảo được đúc theo niên hiệu Thiên Tư Gia Thụy (1186 – 1202) thời
Lý Cao Tông, đường kính 2,45cm – 2,5cm, chữ đọc vòng tròn theo chiều kim đồng hồ
và một loại đọc chéo, nhưng do sự hiếm hoi của nó cho nên chúng ta mới chỉ được
biết đến mà chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu.
II. Tiền tệ thời Lý và những “cú hích” cho nền kinh tế
Với hơn hai thế
kỷ quản lý đất nước, có thể thấy tiền tệ thời Lý luôn có sự phát triển, bổ xung
tạo nên nguồn ngân quỹ chính quốc gia.Đồng tiền dần đóng vai trò chủ đạo trong đời
sống xã hội. Ngay từ khi lên ngôi Lý Thái Tổ đã xuống chỉ “Tiền là huyết của
dân, không thể thiếu”. Chính vì thế khi về quê hương đã “ ban tiền, lụa cho các
bô lão trong làng ” hay sử dụng đến “ phát 2 vạn quan, thuê thợ làm chùa ở phủ
Thiên Đức”. Tiền thời Lý được qui định 1 tiền là 50 đồng. 1 quan có 10 tiền =
500 đồng. Như vậy cho thấy số tiền được sử dụng lưu hành khá lớn. Để có được số
tiền lớn, đầu tiên là phải thúc đẩy khai thác các mỏ đồng lấy nguyên liệu, thứ đến
phải tập trung thợ giỏi lập nên các phường đúc và thứ ba là phải quản lý được số
lượng tiền phát ra. Trong điều kiện buổi đầu độc lập chỉ có nhà nước tập quyền
trung ương mới đáp ứng được các yêu cầu. Nhà Lý đã có những kho tiền quốc gia lớn.
Lượng tiền ấy được sử dụng xây dựng các
công trình kiến trúc cung điện, chùa chiền tạo nên diện mạo mới cho nền văn hóa
đất nước. Các kiến trúc chùa Trấn Quốc, chùa Một cột, đền Bà Tấm (Hà Nội); chùa
Phật tích, chùa Dạm (Bắc Ninh); chùa
tháp Tường Long (Hải Phòng); chùa Long Đội, tháp Chương Sơn (Nam Hà) vv.. năm
1031 “ xuống chiếu phát tiền thuê thợ làm chùa quán ở các hương ấp, tất cả 150
chỗ” hay các hoạt động tôn giáo khác như “ vua sai thợ tạc hơn 1000 pho tượng
phật, vẽ hơn nghìn bức tranh phật, làm bảo phướn hơn một vạn lá”... đã cho thấy số lượng tiền được sử dụng lớn, đưa
vào thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đặc biệt là sự phát triển của các ngành tiểu
thủ công nghiệp
Đầu thời Lý, cuộc
cải cách hành chính lớn; đổi 10 đạo thành 24 lộ lấy Thăng Long làm trung tâm
kinh tế đã tạo nên sức sống mới cho vùng đất. Với nền kinh tế sản xuất chủ yếu
là nông nghiệp, thời nhà Lý ban hành nhiều
chính sách khuyến nông cởi mở đã tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển, hàng
hóa sản xuất tăng lên, nhu cầu trao đổi các vùng ngày càng lớn, nhu cầu mua và
bán đẩy mạnh lưu thông tiền tệ thông qua hệ thống chợ tại kinh đô cũng như các
vùng quê. Sử liệu cho biết ngoài chợ Đông trong kinh thành, năm 1035 “Mở chợ Tây Nhai và dãy phố dài ở chợ ấy”.
Những hoạt động kinh tế trong một thời kỳ dài khá ổn định như sử liệu ghi chép
, năm 1016 “ 30 bó lúa giá 70 đồng”.Đồng tiền giữ vị thế vững chắc trong đời sống
xã hội . Thăng Long đã trở thành một trung tâm kinh tế thương mại về hàng nông
nghiệp và thủ công nghiệp của cả nước. Giá cả ổn định, tiền tệ lưu thông phản
ánh nền kinh tế nói chung và nội thương có bước phát triển. Đồng tiền đã kích
thích nền kinh tế sản xuất hàng hóa tạo
nên ngành kinh tế nội thương phát triển
rộng khắp.
Kinh tế hàng
hóa phát triển là tiền đề để thúc đấy ngoại thương phát đạt, các thương điếm
buôn bán ven biển xuất hiện. Năm 1149 “Mùa xuân tháng 2. thuyền buôn ba nước Trảo
Oa; Lộ Lạc; Xiêm La vào Hải Đông xin cư trú buôn bán, bèn cho lập trang ở nơi hải
đảo gọi là Vân Đồn để buôn bán hàng hóa quý”.
Như vậy vào thời Lý bên cạnh những thương nhân Trung Hoa, ngoại thương
Việt Nam đã có sự tham gia của các thương nhân các nước trong khu vực Đông Nam
á. Bên cạnh ngoại thương đường biển,
ngoài thương đường bộ cũng đẩy mạnh với “Bạc
dịch trường” dọc tuyến biên giới vơi các địa điểm: Vĩnh Bình, Như Hồng, Hoành Sơn,
Tô Mậu vv... Để có được nền ngoại thương nhộn nhịp, sống động, sự đóng góp của
tiền tệ – vật trung gian là không thể thiếu.Số vốn một chuyến đi buôn bán trong
một năm lên đến hàng nghìn quan. Như vậy, ở thời Lý, tiền đóng vai trò quan trọng
trong việc phát triển nội thương và ngoại thương để xây dựng đất nước.
Không những là mạch máu trong hoạt động kinh tế, tiền
còn đóng vai trò quan trọng trong nhiều lịch vực được sử dụng rộng rãi trong
nhiều lĩnh vực. Tiền là nguồn thu ngân sách của vương triều.Năm 1013 định các lệ
thuế : tiền và thóc về bài dâu. Hay là vật
ban thưởng mỗi khi lên ngôi: Năm 1028
nhân việc mới lên ngôi “ xuống chiếu lấy tiền lụa trong kho lớn ban cho thiên hạ”;
ban phát thưởng cho quan lại “ phát quần
áo, tiền lụa trong Nội phủ để ban cho”, hay chẩn cấp cho dân nghèo khi đói kém “
năm 1070 phát thóc và tiền lụa trong kho để chẩn cấp cho dân nghèo” vv..
Tóm lại, tiền tệ
thời Lý đã trở thành công cụ hữu hiệu được sử dụng trong nhiều lĩnh vực, đưa vương
triều Lý phát triển toàn diện, trên mọi mặt kinh tế, văn hóa, tạo nên một thời
kỳ có tiếng là văn minh trong lịch sử dân tộc. Từ vật trung gian, tiền tệ đã
chi phối, ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần của mọi cộng đồng người
trong xã hội và là động lực thúc đẩy xã hội phát triển đi lên. Đó là những đóng
góp của tiền tệ thời Lý góp phần đặt nền
tảng cơ bản cho xã hội Việt Nam phát triển vào những giai đoạn sau của lịch sử
dân tộc.
Kỳ sau: Tiền tệ trong lịch sử Việt Nam – tiền
thời Trần( 1225- 1400)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét