VÀI NÉT VỀ TIỀN THỜI HỒ( 1400 - 1407)
TIỀN GIẤY - CUỘC CẢI CÁCH VÔ TIỀN KHOÁNG HẬU
Năm 1400, sau nhiều biến động chính trường,
nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần. Mặc dù thời gian tồn tại ngắn ngủi (1400 -1407) nhưng
nhà Hồ đã tiến hành nhiều cuộc cải cách kinh tế, trong đó có cải cách tiền tệ, đánh
một dấu ấn quan trọng trong lịch sử tiền tệ Việt Nam.
Nhà Hồ
lên ngôi trong hoàn cảnh đất nước khá đặc
biệt. Trong nước vua quan nhà Trần ngày càng tha hóa, mải ăn chơi sa đọa, ít
quan tâm đến đất nước, sức dân mòn mỏi. Ngoài nước: phía Bắc nhà Minh ngày càng
vững mạnh, hàng ngày hàng giờ dòm ngó tìm cách xâm lăng nước ta. Phía Nam quân
Chiêm Thành luôn quấy nhiễu biên thùy; 3 lần đem quân ra tàn phá Thăng Long,
khiến cho đất nước rơi vào cảnh quyệt quệ. Trước hoàn cảnh đó, Hồ Quý Ly một
viên quan có tư tưởng tiến bộ tìm mọi cách phục hưng đất nước. Trưởng thành từ
một quan đại thần với quan hệ thân tộc con rể vua Trần Minh Tông, sau nhiều năm
củng cố lực lượng, Hồ Quý Ly truất ngôi vua Trần tự lập làm vua, mở đầu triều đại
nhà Hồ trong lịch sử. Trước khi lên ngôi, năm 1394 được Thái thượng hoàng nhà Trần bật đèn xanh “ sau
khi Trẫm chết, quan gia nếu giúp được thì giúp, nếu hèn kém ngu muội thì khanh
cứ tự nhận lấy ngôi vua- Đại Việt sử ký toàn thư tập II tr 187”, Hồ Quý Ly dần
nắm lấy quyền hành và tiến hành những cuộc cải cách mong phục hưng lại sức sống
của dân tộc. Cùng với việc cải cách quân sự, những cuộc cải cách kinh tế được
tiến hành, việc đầu tiên cải cách kinh tế dưới quyền ông là phát hành tiền giấy.
Năm 1396 “ Mùa hạ tháng 4, bắt đầu phát tiền giấy Thông bảo hội sao. In xong ra
lệnh cho người đến đổi, cứ một quan tiền đồng đổi lấy 1 quan 2 tiền giấy. Thể
thức tiền giấy: tờ 10 đồng vẽ rồng, tờ 30 đồng vẽ sóng, tờ 1 tiền vẽ mây, tờ 2
tiền vẽ rùa, tờ 3 tiền vẽ Lân, tờ 1 quan vẽ rồng. Kẻ làm tiền giả bị tội chết,
ruộng đất tài sản bị tịch thu. Cấm tuyệt tiền đồng, không được chứa lén, tiêu vụng,
tất cả thu hết về
kho
Ngao Trì ở kinh thành và trị sở các xứ. Kẻ nào vi phạm cũng bị trị tội như làm
tiền giả”. Tiền giấy lần đầu tiên ở Việt Nam xuất hiện, đánh dấu một chương mới
trong lịch sử tiền tệ Việt Nam. Đồng tiền phát hành có hai yếu tố mới. Tiền
không ghi niên hiệu vua. Đây là một phép thử ngoại lệ trong tiền tệ Việt Nam
khai tử niên hiệu của triều đại Trần, chuẩn bị cho một triều đại mới. Chất liệu
tiền là giấy chưa hề có trong tiền lệ lịch sử chế tác tiền Việt Nam. Tiền giấy
sẽ góp phần giúp cho nhà Hồ thu về số lượng đồng lớn dùng để đúc vũ khí, đặc biệt
là súng Thần công, một loại binh khí mới được ra đời trong thời gian này. Chính
vì thế tiền giấy được nhà Hồ phát huy hiệu quả triệt để thời gian khi cầm quyền.
Tiền giấy có nguồn gốc từ tờ giấy Khoán thời Đường, do
tiền đồng nặng khi sử dụng số lượng lớn không thuận tiện nên sáng tạo ra tờ
Khoán dùng“ để nhận tiền thực, đổi tiền giấy, nhận tiền giấy đổi tiền thực” có
giá trị như tiền cho dễ mang đi trao đổi. “ Thời Tống gọi là giao hội, đời Kim
mới gọi là sao”. Đời Tống, bộ lạc Nữ Chân vì ít đồng nên theo tờ Giao hội làm ra tiền giấy. Nhà Trần
giai đoạn cuối cũng sử dụng tờ Hội giao thay tiền và Hồ Quý Ly đã phát triển từ
Hội Giao thành tiền giấy vừa tiết kiệm đồng vừa thuận lợi trong giao thương.
Cho đến nay chúng ta chưa tìm được đồng tiền giấy nào cho nên chưa rõ kích thước,
chất lượng giấy, kỹ thuật in ấn, cách thể hiện hình vẽ mà chỉ biết được qua ghi
chép trong lịch sử. Nhưng những hiện vật thời Trần tìm được qua các cuộc khai
quật khảo cổ học như hình rồng, thủy ba (sóng nước), tản vân (vân mây) khắc tạc
trên các bệ đá thời Trần đã phần nào cho biết sự phức tạp của các họa tiết
trang trí trên đồng tiền này. Tiền giấy cũng cho thấy, nghề sản xuất giấy có sự
phát triển đặc biệt với kỹ thuật cao sản
xuất ra loại giấy để in tiền.
Tiền giấy
được phát hành, kỹ thuật chế tác tiền giấy giả cũng xuất hiện. Năm 1399 chi sau
3 năm tiền giấy giả xuất hiện. Sử
chép năm 1399 “tên cướp Nguyễn Như Cái
trốn vào núi Thiết Sơn làm giả tiền giấy”
Năm 1400 Hồ Quý Ly lên ngôi cùng với hàng loạt cải
cách kinh tế, chính sách hạn điền, hạn nô, thì việc sử dụng tiền giấy luôn được
nhà Hồ quan tâm. Để kích thích lưu thông, trong chính sách hạn nô, ngoài số nô được
cấp
có số lượng khác nhau số còn thừa phải dâng lên,“ mỗi
tên được trả 5 quan tiền”. Năm 1401 “ Hán Thương đặt kho thường bình, phát tiền
giấy cho các lộ theo giá cả để mua thóc lúa chứa vào kho”. Năm 1402 nhà Hồ thu
thuế bằng tiền giấy “ người nào chỉ có 5 sào ruộng thì thu 5 tiền giấy; từ 6
sào đến 1 mẫu thì thu 1 quan; 1 mẫu 1 sào đến 1 mẫu 5 sào thu 1 quan 5 tiền; từ
1 mẫu 6 sào đến 2 mẫu thu 2 quanvv...” Năm 1403 “Đặt chức thị giám, ban hành
cân thước, thưng, đấu, định giá tiền giấy cho mua bán với nhau.Bấy giờ, người
buôn bán phần nhiều chê tiền giấy. Lại lập điều luật để xử tội không tiêu tiền
giấy, bán giá cao, đóng cửa hàng, bao che giúp nhau.”. Lần đầu tiên ở nước ta
xuất hiện luật pháp bảo vệ giá trị của tiền tệ
Chính sách ngoại
thương nhà Hồ cũng thu thuế bằng tiền giấy có giá trị như tiền đồng “ đánh thuế
các thuyền buôn, định 3 mức thượng, trung, hạ. Mức thượng đánh thuế mỗi thuyền
5 quan, mức trung 4 quan, mức hạ 3 quan”.
Như vậy tiền giấy được phát hành năm 1396 đến nay đã được
lưu thông khá phổ biến trong nhân dân và trở thành “quốc tệ” được nhà nước sử dụng
trong các chính sách kinh tế của mình và đưa đồng tiền vào luật pháp bảo vệ.
Chính vì những biện pháp kinh tế, luật pháp đồng tiền giấy được phát hành thời
Hồ được sử dụng mãi về sau này trong tiền tệ Việt Nam. Tiền giấy là một bước
phát triển mới với tính chất gọn nhẹ, dễ lưu thông trao đổi là tác nhân quan trọng
thúc đẩy nền kinh tế phát triển trong giai đoạn này đặc biệt là thương nghiệp
buôn bán trong và ngoài nước.
Bên cạnh tiền giấy là chủ đạo, nhà Hồ cũng cho đúc tiền
đồng, đó là đồng Thánh Nguyên thông bảo. Đồng tiền này không thấy ghi chép
trong chính sử, nhưng sự hiện diện của đồng tiền tìm được mang đặc điềm giống
những đồng tiền thời Trần giai đoạn cuối, mặt tiền đề ghi chữ Thánh Nguyên, niên hiệu Thánh Nguyên của Hồ
Quý Ly năm 1400 cho thấy đây là tiền được đúc năm 1400. Đồng tiền này được đúc chỉ có tính chất biểu
tượng, đánh dấu niên hiệu của một triều đại mới. Tiền được đúc nhỏ, đường kính
dưới 2,1cm, mỏng, chất lượng đồng kém cho thấy việc đúc rất tiết kiệm nguyên liệu
đồng. Việc đúc tiền này chỉ có tính chất biểu tượng của một vương triều mới
theo truyền thống tiền tệ Việt Nam, cho nên số lượng tiền đồng này không nhiều.
Thời Hồ tiền giấy vẫn giữ vai trò chủ lực trong lưu thông tiền tệ. Cuối năm
1406 quân Minh xâm lược vào chiếm kinh thành “ thu lấy hết tiền đồng ở các xứ,
cho chạy trạm đưa về Kim Lăng” thì những tiền đồng cuối cùng của nhà Hồ không
còn. Lưu thông tiền tệ chỉ còn tiền giấy trong nền kinh tế.
Sau hơn 10 năm khởi nghĩa giành thắng lợi, năm 1428 Lê
Lợi lên ngôi lấy niên hiệu mới là Thuận Thiên, buổi đầu nhà Lê vẫn sử dụng tiền
giấy nhà Hồ “ Ban tiền giấy và chi phí dọc đường cho bọn Nhữ Kính, đồng thời
ban tiền giấy và áo lót vóc hoa cho sứ nước ta là bọn Lê Quốc Khí, sai họ cùng đi
với bọn Nhữ Kính”. Cuối năm 1428 nhà Lê mới cho đúc tiền Thuận Thiên thông bảo,
đồng tiền mang niên hiệu mới của triều đại mới, đánh dấu một giai đoạn mới của
lịch sử tiền tệ Việt Nam. Tiền giấy nhà Hồ sau 32 năm phát hành và tồn tại cho đến
nay đã chấm dứt vai trò lịch sử./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét