Thứ Năm, 21 tháng 1, 2016

VÀI NÉT VỀ ĐỒNG TIỀN THỜI TRẦN
(1226- 1400)
Hơn hai thế kỷ, những đồng tiền thời Lý được phát hành, sử dụng thường xuyên đã phát huy tác dụng kích thích nền kinh tế dân tộc phát triển, tạo nền móng vững chắc cho nền tài chính quốc gia độc lập tự chủ. Bước vào thời Trần, những đồng tiền Việt Nam đã vững mạnh trở thành mạch máu lưu thông cho nền kinh tế, góp phần vào sự nghiệp bảo vệ nền độc lập dân tộc.

 Sau những biến động thăng trầm cuối vương triều Lý, năm 1225 nhà Trần kế tục sự nghiệp nhà Lý bằng diễn tiến hòa bình. Lý Chiêu Hoàng vị vua cuối cùng của nhà Lý nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh sáng lập nên vương triều Trần đầy võ công hiển hách trong lịch sử 3 lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền của dân tộc. Nhà Trần kéo dài 176 năm ( 1225 -1400) với 13 đời vua về cơ bản vẫn ổn định duy trì phát triển một cơ cấu xã hội như thời Lý, nền kinh tế dần được phục hưng. Những hoạt động nội thương và ngoại thương được xây dựng đặt tiền đề cơ sở từ thời Lý đến triều Trần đã phát huy tác dụng. Xã hội xuất hiện  tầng lớp con buôn trong đó có vương công quý tộc nhà Trần (Trần Khánh Dư ). Nhiều ngành nghề liên quan đến tiền xuất hiện như đánh bạc, cầm cố, cho vay nặng lãi, mua bán chức tước vv... chứng tỏ đồng tiền đã phát huy tác dụng và chi phối đời sống xã hội khá sâu sắc. Trong 13 vua đời Trần có 5 đời vua cho đúc tiền, có vua cho đúc nhiều lần với số lượng lớn. Những lần đúc tiền là những thời điểm bước ngoặt trong đời sống kinh tế cộng đồng, những đồng tiền được đúc ra đã phát huy tác dụng, làm ổn định xã hội, tăng cường ngân khố quốc gia, tạo nên sức mạnh cho nền kinh tế thời Trần trong lịch sử.
INhững đồng tiền thời Trần
1.Trần Thái Tông ( 1226 – 1258) lên ngôi kế thừa di sản cuối mùa của vương triều Lý với nền kinh tế suy đốn, kho tàng trống rỗng vì loạn lạc. Để phục hưng kinh tế sau khi ổn định xã hội Trần Thái Tông cho điều chỉnh giá trị đồng tiền và đúc tiền lưu hành. Sử cũ ghi lại năm 1226 “ Xuống chiếu cho dân gian dùng tiền “tỉnh bách” mỗi tiền là 69 đồng. Tiền nộp cho nhà nước (tiền thượng cung) thì mỗi tiền là 70 đồng - Đại Việt sử ký toàn thư tập II tr 9”. Hơn 30 năm cầm quyền với 3 niên hiệu, Trần Thái Tông đã nhiều lần cho đúc tiền mang  3 niên hiệu của thời đại . Hiện nay khảo cổ học còn tìm thấy 3 niên hiệu tiền thời Trần Thái Tông.
- Niên hiệu Kiến Trung (1226 -1232) là tiền Kiến Trung Thông Bảo.
Tiền đúc hình tròn, đường kính2,1cm – 2,14cm. Vành biên hơi rộng, phẳng. Giữa lỗ vuông có gờ nổi.Mặt trước chữ viết đối xứng qua tâm. Cách đọc tròn theo chiều kim đồng hồ. Mặt sau phẳng
     
Tiền Kiến Trung Thông Bảo       
- Niên hiệu Thiên ứng Chính Bình ( 1232 -1251) đúc tiền Chính Bình thông
bảo.Tiền đúc hình tròn. Vành biên rộng phẳng, giữa có lỗ vuông. Mặt trước chữ viết đối xứng qua tâm. Cách đọc vòng tròn theo chiều kim đồng hồ. Mặt sau trơn phẳng.
        
Tiền Chính Bình thông bảo
- Niên hiệu Nguyên Phong ( 1251 -1258) đúc tiền Nguyên Phong thông bảo
Tiền đúc hình tròn. Vanh biên rộng, giữa có lỗ vuông. Mặt trước chữ viết đối xứng qua tâm. Chữ có hai loại chữ chân và chữ thảo, điều này cho thấy đồng tiền này có hai lần đúc học khi đúc sử dụng hai khuồn đúc khác nhau
     
Tiền Nguyên Phong thông bảo.
. Cách đọc vòng tròn theo chiều kim đồng hồ. Mặt sau trơn phẳng
2. Trần Thánh Tông ( 1258-1278 )ở ngôi 20 năm có hai niên hiệu là Thiệu Long
và Bảo Phù. Hiện nay mới tìm được tiền Thiệu Long thông bảo. Tiền đúc hình tròn, vành biên rộng phẳng, giữa có lỗ vuông. Mặt trước chữ viết đối xứng qua tâm, cách đọc vòng tròn theo chiều kim đồng hồ. Mặt sau phẳng nhẵn.Đây là đồng tiền duy nhất được đúc dưới thời Trần Thánh Tông
Tiền Thiệu Long thông bảo
3. Sau một thời gian dài các đời Vua Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông không thấy sử cũ ghi lại việc đúc tiền tệ và cũng chưa tìm được đồng tiền đúc vào thời này đến thời Vua Trần Minh Tông  nhà Trần lại tiến hành đúc tiền cho lưu thông ngoài xã hội.  Trong những niên hiệu được sử dụng, niên hiệu Khai Thái ( 1324 -1329) nhà Trần cho đúc tiền Khai thái nguyên bảo. Tiền đúc hình tròn, đường

kính 2,37cm. vành biên rộng phẳng, giữa có hình vuông có gờ, lỗ hơi tròn.Mặt trước chữ viết đối xứng qua tâm, cách đọc trên trước, dưới sau; phải trước trái sau. Mặt sau tiền Khai Thái nguyên bảo có hai loại, một loại mặt sau trơn phẳng; một loại mặt sau trơn những có chữ Trần.
Khai Thái nguyên bảo
4. Trần Dụ Tông là đời vua Trần đúc nhiều tiền nhất, nhiều lần đúc với số lượng lớn. Niên hiệu Thiệu Phong( 1341- 1357) có hai lần đúc tiền: Thiệu Phong nguyên bảo và Thiệu Phong thông bảo. Tiền Thiệu Phong nguyên bảo có đến 4 loại khác nhau. Điều này cho thấy có khả năng nhà nước có 4 xưởng đúc tiền khác nhau, hoặc 4 lần đúc loại tiền này với thời gian khác nhau. Tiền Thiệu phong
thông bảo có đến 20 loại khác nhau đã cho thấy nhu cầu sử dụng tiền và đúc tiền rất rầm rộ, trước nhu cầu đòi hỏi của sự phát triển kinh tế.Niên hiệu Đại Trị ( 1358 -1369) Trần Dụ Tông lại cho
Thiệu Phong nguyên bảo và thông bảo
đúc liên tiếp các đồng tiền Đại Trị nguyên bảo; Đại Trị thông bảo. Tiền Đại trị nguyên bảo có đến 5 loại tiền với các lối chữ viết khác nhau. Tiền Đại Trị thông
bảo còn phong phú hơn với nhiều loại. Những đồng tiền này cơ bản có kích thước giống nhau, đường kính 2,35cm – 2,38cm. Mặt trước viết chữ, cách đọc trên dưới, phải trái.
Tiền Đại Trị thông bảo
5. Sau Trần Dụ Tông, Trần ( Dương) Nhật Lễ lên ngôi lấy niên hiệu Đại Định ( 1369 -1370), ông đã cho đúc tiền Đại Định thông bảo. Tiền Đại Định thông bảo
 được đúc hình dáng và kích thước như các đồng tiền thời Trần khác. Tiền hình tròn, giữa có lỗ vuông. mặt trước chữ viết đối xứng qua tâm,  cách đọc trên trước dưới sau, phải trước trái sau, nét chữ sắc sảo. Mặt sau để trơn nhẵn.
6. Trần Nghệ Tông lên ngôi ( 1370 -1372), niên hiệu
Đại Trị thông bảo
Thiệu Khánh ông cho đúc tiền Thiệu Khánh thông bảo. Đồng tiền này được sử liệu ghi chép, nhưng cho đến nay còn lại rất hiếm hoi
II. Tiền tệ thời Trần và những hệ quả.
Trong lịch sử, thời gian cầm quyền của nhà Trần không kéo dài như thời Lý, nhưng việc đúc và sử dụng đồng tiền nhiều hơn, rộng rãi hơn. Đồng tiền lưu thông trở thành động lực chính để phát triển kinh tế. Có tiền kinh tế hàng hóa phát triển, các ngành sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, mua bán ngoại thương được đẩy mạnh. Đồng tiền được sử dụng mua bán ruộng đất. Năm 1253 nhà nước “ bán ruộng công, mỗi diện là 5 quan tiền( bấy giờ mẫu gọi là diện) cho phép nhân dân mua làm ruộng tư”.Năm 1266 “ Xuống chiếu cho vương hầu công chúa phò mã cung tần chiêu tập dân phiêu tán không có sản nghiệp làm nô tì để khai khẩn ruộng bỏ hoang thành lập điền trang.”. Tiền hoạt động kinh doanh thương nghiệp trong nước. Hệ thống chợ phát triển rộng rãi khắp nơi , từ kinh kỳ đến thôn quê. Sứ nhà Nguyên Trần Phu cho biết “ Chợ ở thôn xóm hai tháng họp một lần, trăm thứ hàng hóa tụ họp ở đây. Cứ năm dặm thì dựng một cái nhà, bốn mặt đều đặt chỗng để làm nơi họp chợ ”. Hoạt động thương mại góp phần kích thích nền sản xuất hàng hóa phát triển. Tiền sử dụng trong hoạt động ngoại thương buôn bán với thương nhân nước ngoài.Ngoài thương cảng Vân Đồn ( Quảng Ninh)  xuất hiện từ thời Lý do nhà nước kiểm soát thì các thương cảng ven biển cũng hoạt động khá sôi nổi như cảng Diễn Châu ( Nghệ An); Hội Thống ( Hà Tĩnh). An Nam tức sự của Trần Phu cho biết “ Phủ Thanh Hóa...cách thành Giao Châu hơn hai trăm dặm. Các thuyền phiên hải ngoại tụ tập ở đấy, họp chợ ngay trên thuyền rất đông vv... với lái buôn các nước Xiêm ; Java; Lộ Hạc; Hồi Hột; đặc biệt là các thương nhân Trung quốc. Kích thích nền thương nghiệp phát triển, nhà Trần luôn cho đúc tiền bổ xung làm vật trung gian trao đổi thuận lợi.Nhiều ngành nghề liên quan đến tiền xuất hiện như đánh bạc, cầm cố, cho vay nặng lãi, mua bán chức tước, phạt lỗi quan lại vv... chứng tỏ đồng tiền đã phát huy tác dụng và chi phối đời sống xã hội khá sâu sắc. Đồng tiền đã  góp phần làm tha hóa một bộ phận cư dân cho đến vua quan trong xã hội.  Năm 1362 vua “ gọi các nhà giàu trong nước như ở làng Đình Bảng thuộc Bắc Giang, làng Nga Đình thuộc Quốc Oai vào cung đánh bạc. Có tiếng bạc đặt tới 300 quan tiền, ba tiếng thì đã tới gần nghìn quan rồi”. Các quan cũng đua nhau đánh bạc “thua vài chục quan là vò đầu bứt tóc khổ sở”. Quan hệ tiền tệ đã kích thích sự phát triển nền kinh tế trong các lĩnh vực công và ngược lại sự tác quái của đồng tiền cũng xuất hiện chi phối đời sống của con người.
Cuối thời Trần vào thế kỷ 14, xã hội phong kiến lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Kinh tế  dần suy yếu. Thiên tai địch họa luôn xảy ra, các cuộc chiến tranh với Chiêm Thành và Ai Lao kéo dài liên miên làm cho Vương triều Trần  dần suy yếu. Hồ  Quý Ly dần tập hợp lực lượng, thâu tóm quyền hành, tạo ra những uy thế đầu tiên để dần nắm lấy chính quyền. Năm 1400, Quý Ly truất  ngôi Vua Trần Thiếu Đế, tự lập làm vua, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, đổi quốc hiệu là Đại Ngu. Trong 7 năm ở ngôi, Quý Ly đã thực hiện nhiều cuộc cải cách kinh tế, trong đó có cải cách tiền tệ, đánh dấu một chương mới trong lịch sử tiền tệ Việt Nam./.
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét