Thứ Ba, 5 tháng 1, 2016


CHÙA NHẪM DƯƠNG (HẢI DƯƠNG) VÀ THIỀN PHÁI PHẬT GIÁO TÀO ĐỘNG



Phật giáo là tôn giáo lớn, đóng vai trò quan trọng, đồng hành theo suốt chiều dài lịch sử nền văn hóa dân tộc. Mặc dù có nguồn gốc "ngoại sinh", khi hội nhập vào đời sông tinh thần của người dân, Phật giáo đã trở thành hệ tư tưởng và có nhiều đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ  nền độc lập và bản sắc văn hóa dân tộc.Trong quá trình hội nhập và phát triển, trong mỗi giai đoạn lịch sử các Thiền phái  Phật giáo có nhiều đóng góp khác nhau, trong đó có thiền phái Tào Động, xuất hiện trong dòng chảy Phật giáo Việt Nam vào thế kỷ XVII - XVIII
I.Vài nét về nguồn gốc:
Theo lịch sử nguồn gốc Thiền Phái Tào Động xuất hiện tại Trung Hoa vào thế kỷ IX. Thiền phái này có hai thiền sư Ðộng Sơn và Lương Giới (807-869) và Tào Sơn Bản Tịch (840-901) sáng lập. Vào thế kỷ XVII thiền phái được du nhập vào Việt Nam Theo tấm bia chùa Hồng Phúc (Hà Nội) soạn năm 1932 cho biết vị Tổ thứ nhất của thiền phái ở Việt Nam là Hòa thượng Thủy Nguyệt, pháp húy Thông giác đạo Nam thiền sư và được coi là truyền thừa đời thứ 36 của thiền phái Tào Động nói chung.
Theo hành trạng của Tổ cho biết ông sinh năm 1637, quê ở Thanh Triều, huyện Ngự Thiên, phủ Tiên Hưng đạo Sơn Nam, vốn có nguồn gốc gia đình " thi thư đời trước nối truyền, đạo đức sửa mình trong sạch. Thiếu thời thi đỗ nho khoa, tên sớm nêu cao bảng hổ. Tráng niên nghiên cứu thêm Thiền học..." (1). Xuất thân từ gia đình nho học,  năm 18 tuổi thi đỗ Cống cử tứ trường, năm 20 tuổi chán cảnh bọt bèo dâu bể tìm để chùa xã Hổ Đội, huyện Thụy Anh xin xuất gia học đạo. Năm 1664, ông cùng hai đệ tử đi  tu học tại  chùa trên núi Phượng Hoàng, Hồ Châu (Trung Quốc) trực tiếp với Hòa thượng Nhất Cú Trì giáo tổ thứ 35 của thiền phái Tào Động " đạo vốn nhận từ núi phượng xa xôi". Trong sáu năm theo học căn cốt   giáo lý  cơ bản của thiền phái Tào Động, năm 1667 (2) ông trở về Việt Nam cư trú tại chùa Vọng Lão ở núi An Sơn, huyện Ðông Triều, tỉnh Hải Dương,  hoằng Dương giáo lý của thiền phái này.
Với giáo lý "Dòng Tào Ðộng chủ trương Vị quân thần".
Có vua là vì có bầy tôi, có bầy tôi là vì có vua:
Vua trông thấy bầy tôi.
Bầy tôi hướng về vua
Vua (một mình)
Bầy tôi (một mình)
Vua và bầy tôi (bên nhau).
Ông đã có mặt tại nhiều ngôi chùa trên các vùng để lan tỏa giáo lý: Tư Phúc (Côn Sơn - Hải Dương),  Quỳnh Lâm, Yên Tử, Đông Sơn vv... Đặc biệt tại kinh đô Thăng Long: các chùa Hàm Long, Hòa Giai và Trấn Quốc (Hà Nội) đều thuộc tông phái Tào Ðộng. Sức sống của thiền phái Tào Động lan tỏa ảnh hưởng khá rộng. Năm 1704, ông mất thọ sáu mươi tám tuổi, được coi là ông tổ thứ nhất của thiền phái Tào Động (Nam thiền sư) ở Việt Nam và tổ thứ 36 của thiền phái Tào Động nói chung.
Vài sơ lược hành trạng của Hòa thượng Thủy Nguyệt- tổ thứ nhất cho thấy:(3)
- Bối cảnh xã hội Việt Nam lúc đó sau cuộc chiến tranh Lê - Mạc liên miên, mặc dù Phật giáo có bề dày hàng ngàn năm trong đời sống tinh thần dân tộc với nhiều thiền phái đóng góp đáng kể, nhưng sau chiến tranh chùa chiền bị quên lãng, phá hủy, sức sống Phật giáo bị tản mát. Cho nên sau chiến tranh việc phục hưng phật giáo để củng cố ý thức hệ dân tộc, tái cấu trúc một xã hội ổn định là việc làm cấp thiết. Thiền phái Tào Động xuất hiện trong thời điểm lịch sử đó  đáp ứng được nhu cầu của dân tộc.
- Tổ thứ nhất của thiền phái Tào Động ở Việt Nam là nhà nho khoa bảng xuất gia. Ông có nền tảng kiến thức cơ bản  về nhận thức xã hội, nhận thấy nên và cần có một thiền phái Phật giáo phù hợp điều kiện xã hội mới để xây dựng hệ tư tưởng  phù hợp với hoàn cảnh lịch sử. Ông đã chọn giáo lý của phái Tào Động làm mục tiêu truyền bá. Xuất thân từ Đại khoa nho giáo ông có đủ kiến thức để nhận biết, tiếp thu giáo lý đạo Phật căn cốt, có chọn lọc phục vụ cho mục đích.
- Phái Tào Động truyền vào Việt Nam  do được người Việt Nam chủ động du nhập. Giáo lý được tiếp thu cơ bản, trực tiếp từ nơi khai sinh ra thiền phái tôn giáo này. Người tiếp thu, truyền bá có kiến thức quảng bác, chọn lọc phù hợp với tinh thần dân tộc nên thiền phái Tào Động có điều kiện dương danh và lưu truyền rộng rãi lâu dài cho đến ngày nay.
II. Chùa Nhẫm Dương và những ngôi chùa liên quan.
Hơn 3 thập niên cuối đời  hoằng dương giáo lý thiền phái Tào Động, tư liệu ghi chép về những địa danh cho biết ông đã tiếp xúc với Hòa thượng chùa Thượng Long (Đông Triều) và trụ lại tại chùa Hạ Long để khuông đồ lãnh chúng' "Sư ở đây không bao lâu dân chúng đến nghe pháp và quy y rất đông"
Từ chùa Hạ Long, cuối đời " Sư bảo bổn chúng rằng: Nay ta lên chơi trên núi Nhẫm Dương, nếu bảy ngày không trở về, các ngươi tìm thấy chỗ nào có mùi thơm thì ta ở đấy. Tứ chúng bùi ngùi mà không dám theo. Đợi đúng 7 ngày không thấy nhà sư trở về, tứ chúng cùng nhau kéo lên núi Nhẫm Dương nghe gió thổi mùi hương ngào ngạt, mọi người tìm đến một cái hang thấy sư ngồi kiết già trên trên tảng đá trong hang... Tứ chúng thỉnh nhục thân sư về hỏa táng, chia linh cốt thờ hai nơi, một ở chùa Hạ Long, một ở hang núi Nhẫm Dương".
Như vậy trong hành trạng của mình, tài liệu cho biết Thủy Nguyệt tổ sư liên quan đến 3 địa danh: chùa Hổ Đội quê hương, nơi xuất gia đầu tiên. Chùa Hạ Long nơi chù trì và  chùa Nhẫm Dương nơi tịch tại hang núi Nhẫm Dương. Cốt được thờ hai nơi: chùa Hạ Long và Nhẫm Dương. Từ đó tín đồ coi chùa Nhẫm Dương là chốn Tổ Đình.
 Do thăng trầm biến động của lịch sử, qua năm tháng khảo sát những địa danh ghi chép cho thấy:
1. Chùa Thượng Long:
 Dấu tích chùa Thượng Long nằm trên ngọn núi cao trên 820m so với mực nước biển thuộc xã Bình Khê, thị trấn Mạo Khê. Chùa nằm nơi cao nhất của dãy núi nên tên chùa là Thượng Long? Đỉnh là khoảng đất khá phẳng rộng. Chính giữa là một " huyệt linh"  khá vuông vức trấn trời đất rộng khoảng 9m2 , hiện mọc đầy lau sậy, mà người dân ở đây tương truyền là giếng? Bên cạnh là khối đá sạn hình khối chữ nhật được coi là Mộ thiêng của vị Thiền sư, người thường đàm đạo với sư tổ Tào Động. Phía Đông  thấp dưới sườn là khoảnh đất phẳng, hiện còn lại dấu vết nền chùa cũ. Dựa vào địa hình cho thấy quy mô chùa khá nhỏ. Chắc được dựng bằng vật liệu kém bền vững nên chưa thấy dấu vết vật liệu bền vững. Phía Tây còn lại là ngôi mộ thủy Tổ(?) mới được tôn tạo. Với dấu tích, địa danh còn lại  có thể thấy đây là địa điểm Phật giáo liên quan đến Tổ Sư thiền phái Tào Động
Hai Ngôi Mộ(?) liên quan đến chùa Thượng Long
2 Chùa Hạ Long:
Chùa nằm dưới vị trí sườn núi thấp trên đường lên chùa Thượng Long. Do năm tháng chùa hiện nay được tôn tạo lại. Kiến trúc xưa duy nhất để lại là tháp Mộ. Căn cứ vào dáng tháp, số tầng, kỹ thuật xây dựng cho thấy đây là ngọn tháp được xây dựng vào thế kỷ XVIII. Có thể đây là nơi chứa Bảo cốt của thiền sư Tổ.
3 Chùa Non Đông (Tường Quang)
 Chùa Non Đông tọa lạc trên vùng đất phẳng dưới chân núi thuộc khu Vĩnh Lập, thị trấn Mạo Khê (Đông Triều). Do biến loạn xã hội, chùa cũ không còn, trên địa điểm xưa chùa được tôn tạo lại. Khảo sát hiện trạng cho thấy, tại đây còn lưu giữ 01 tấm bia thế kỷ XIV. Niên hiệu Khai Hựu năm thứ 3 với kích thước còn lại cao 118cm, rộng 52cm, dày 12cm, đặt trên bệ đá khối hộp  chữ nhật vuông dài 89cm, rộng 46cm.
Bia đá chùa Non Đông

Viền khối tạc hoa văn cánh sen khắc nổi mập tròn. Trấn bia vỡ, một bên trang trí hình chim Phượng. Lòng bia khắc chữ khá rõ. 01 tấm bia  niên hiệu Tự Đức, Khối chữ nhật mỏng, để trơn không trang trí. Nội dung bia nói về hành trạng sư chù trì chùa - Tổ Cua. 01 chân tảng đá vuông vức, kích thước lớn.Hai Bảo tháp đá ba tầng thu nhỏ gọn vút cao, các tầng cân đối hài hòa vững chãi. Tháp có niên đại vào thế kỷ XVII - XVIII.
Hai tháp Mộ chùa Non Đông
 Dựa vào di vật còn lại cho thấy chùa là địa điểm thiêng, được hưng công nhiều lần. Lần hưng công có quy mô lớn nhất có thể vào thời thiền phái Tào Động chù trì.
4. Phế tích kiến trúc.
Phế tích nằm không xa chùa Non Đông, ven sườn một quả đòi thấp. Khảo sát địa hình cho thấy tại đây còn dấu vết nền kiến trúc không rộng được kè đá vững chắc. Hạt nhân của kiến trúc hiện còn hai ngôi mộ, trong đó có tháp mộ quy mô không lớn. Di vật liên quan đến tháp mộ còn một phiến đá hình chữ nhật khá dày, được chế tác cẩn thận, hai mặt mài nhẵn có viết về hành trạng sự nghiệp của sư trù trì chùa vào thế kỷ XVIII. Kich thước phiến đá:
Kè đá mặt bằng kiến trúc
Di vật ghi hành trạng
Dài 1,08m, rộng 0,435m, dày 0,22m
5 Chùa Nhẫm Dương (Thánh Quang)
Chùa Nhẫm Dương nằm trên vùng đất phẳng, dưỡi chân dãy núi Nhãm Dương. Đây là dãy núi đá vôi có phong cảnh đẹp, hữu tình trên vùng đất. Do kiến tạo địa chất, qua năm tháng can thiệp của tự nhiên nhiều hang động trong dãy núi được hình thành tạo nên những kỳ quan. Theo tài liệu cho biết Sư tổ thiền phái Tào Động hóa trong hang núi tại đây. Chùa được lưu giữ một phần linh cốt nên nơi đây được thiền phái coi là chốn Tổ Đình. Chùa Nhiễm Dương, do năm tháng cùng biến động xã hội, kiến trúc xưa không còn. Trên địa điểm cũ, chùa được dựng lại. Những dấu tích còn lại ngoài hang thánh tích xưa nơi hóa của Tổ Thiền, những di vật chùa xưa còn lại : 01 chân tảng  khối hộp vuông dá xanh, mặt trang trí cánh sen, kích thước 0,55m x 0,55m
Chân tảng
Trán bia thời Nguyễn
 04 bia đá cùng một tháp Mộ, trong đó bia Thánh Quang thiền tự dựng năm Tự Đức thứ 12 được trang trí đẹp, đề tài lưỡng long  (hóa lá) chầu nguyệt được chạm khắc sắc sảo điển hình cho nghệ thuật điêu khắc thời Nguyễn ở phía Bắc.
III. Sự đóng góp của thiền phái Tào Động vào văn hóa dân tộc thế kỷ XVII - XVIII.
  Phật giáo có mặt ở Việt Nam khá sớm từ những năm đầu công nguyên. Vào thời điểm thiền phái Tào Động có mặt ở Việt Nam, phật giáo đã đứng chân trên dải đất gần hai ngàn năm với nhiều dòng thiền lớn ảnh hưởng sâu rộng: Vô ngôn thông, Tỳ ni đa lưu chi.... hay những thiền phái được người Việt sáng lập như Thảo Đường, Trúc Lâm. Đặc biệt là thiền phái Trúc Lâm do Vua Trần Nhân Tông sáng lập với 3 vị tổ ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội Việt Nam với các trung tâm Yên Tử, Quỳnh Lâm, Côn Sơn.
Vị thế của Phật giáo sa sút vào thế kỷ XV khi ý thức hệ nho giáo thắng thế trong nhà nước quân chủ thời Lê. Sự biến động của xã hội, sự tranh chấp quyền lực của các tập đoàn phong kiến Nam - Bắc triều (Mạc - Lê Trịnh); Đàng trong - Đàng ngoài (Lê Trịnh - Nguyễn) sau hơn trăm năm loạn lạc khiến ý thức hệ nho giáo khủng hoảng. Tầng lớp nho sĩ ngả nghiêng, xã hội biến loạn người dân  có xu hướng quay về nương náu tinh thần nơi cửa phật. Vào thế kỷ XVII khi xã hội dần tương đối ổn định, phật giáo từng bước dần phục hưng. Kế thừa những dòng thiền truyền thống cùng với sự hồi sinh của thiền phái Trúc Lâm thì xuất hiện nhiều dòng thiền khác như Lâm Tế, Liên Tông  Tào Động. Sự xuất hiện thiền phái Tào Động trong điều kiện sự nở rộ của các thiền phái cho thấy thiền phái này có vị thế riêng bởi những đóng góp vào hệ tư tưởng dân tộc.
 Khảo sát các di tích chùa thuộc thiền phái Tào Động với trung tâm là tổ đình Nhẫm Dương bước đầu cho thấy:
- Cơ sở tu hành của thiền phái vốn có từ những cơ sở phật giáo cũ được Tào Động dương danh trở lại nhưng mang nội dung mới. Nằm trên địa bàn vòng cung Đông Triều, các chùa của Tào Động vốn kế thừa các cơ sở của thiền phái Trúc Lâm. Sự có mặt của sư tổ tại các di tích Côn Sơn, Yên Tử... những trung tâm của Trúc Lâm xưa cho thấy khi hoằng dương ông đã chọn một dòng thiền của dân tộc để dương danh. Chính vì thế các chùa thuộc phái Tào Động có liên quan mật thiết nằm  tập trung ở vùng đất Đông Triều  và Nhẫm Dương - Hạ Long được chọn làm nơi tu hành, chứa linh cốt và trở thành Tổ Đình của thiền phái.
-  Những cơ sở vật chất của Tào Động giai đoạn đầu chủ yếu xuất hiện tại những vùng núi do điều kiện lịch sử, đời Vĩnh Trị (1678- 1680) vua Lê Hy Tông ra lệnh cho các quan trong cả nước bất cứ ở đâu Tăng ni hoặc già hoặc trẻ đều đuổi hết về nơi rừng núi. Cho nên các di tích biết đến đều  được xây dựng trên các vùng địa hình này.Do Tào Động xuất hiện muộn, chưa có bề dày năm tháng so với các thiền phái khác, lại không được bảo trợ của chính quyền nên cơ sở vật chất thường quy mô không lớn, mang tính chất cộng đồng nhỏ.
- Vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII thiền phái Tào Động được phát huy bởi công của vị Tổ thứ 2 là Thiền sư Tông Diễn. Ông là người nhận thức Phật giáo chỉ phát triển được khi có sự ủng hộ của chính quyền và ông đã tìm cách đưa tinh thần phật giáo Tào Động về kinh đô. Người đã lấy tinh thần của dòng phật giáo Tào Động thuyết pháp nội dung: Dòng Tào Ðộng chủ trương Vị quân thần. Có vua là vì có bầy tôi, có bầy tôi là vì có vua." Phép vua chính cùng phép Phật gắn liền như thịt với da". Tinh thần này phần nào giải quyết cho sự khủng hoảng của tinh thần nho giáo, ủng hộ tinh thần trung Quân, nâng cao vị thế của nhà vua nên được sự ủng hộ của chính quyền. Điều kiện đã cho phép phái Tào Động phát triển trên hai địa bàn, nơi đứng chân đầu tiên (Hạ Long - Nhẫm Dương nơi vị tổ thứ nhất trù trì) và nơi trung tâm đất nước
( Kinh đô Thăng Long). Tại nơi khởi nguồn với Hạ Long - Nhẫm Dương làm trung tâm, phái Tào Động hòa cùng các thiền phái khác dương danh đạo Phật, biến vùng đất Đông Triều thành một trung tâm Phật giáo lớn vào thế kỷ XVII - XVIII mà vào thế kỷ XVII, Nguyễn Dữ đã nhận xét  ở Đông Triều chùa “… dựng nhan nhản khắp nơi, những người cắt tóc làm tăng ni nhiều bằng nửa số dân thường…”.
Tại Thăng Long thiền sư Tông Diễn đã cho khắc bản in kinh Hoa Nghiêm ở chùa Báo Thiên, khắc bản in kinh Pháp Hoa để ở chùa Khán Sơn. Tu sửa chùa Hòa Nhai (Hồng Phúc) làm nơi trù trì, mở nhiều cơ sở của thiền phái nhiều nơi làm nên hệ thống chùa của  phái Tào Động trên vùng đất Thăng Long và phụ cận " kế tục quá khứ, mở rộng tương lai, chốn tùng lâm Hồng Phúc lại chấn hưng; đèn Thiền lại ngời ánh lửa. dòng phái Tào Khê mãi mãi dài lâu. Phong trào tôn giáo lại dâng cao, cùng núi Nùng sông Nhị muôn đời tồn tại"4. Thiền phái Tào Động phát huy rầm rộ vào đầu thế kỷ XVIII và cho đến sau này. Theo văn bia chùa Hồng Phúc cho biết, thiền phái Tào Động khi khắc bia( 1932) được truyền đến  đời thư 47, tức là được 12 đời của thiền phái Tào Động ở Việt Nam.
Sự có mặt của thiền phái Tào Động và sự truyền bá tinh thần Phật giáo trong đời sống xã hội lúc đó đã tạo nên, củng cố ý thức hệ tinh thần dân tộc. Đề cao vai trò của nhà vua là đề cao tính dân tộc " trung quân ái quốc". Tạo nên sự ổn định của xã hội làm nền cho sự phát triển kinh tế văn hóa. Sự kết hợp chặt chẽ giữa chính quyền quản lý xã hội với phật giáo  đã đưa phật giáo nhập thế xã hội, tăng cường sự đoàn kết toàn dân tạo nên sức mạnh cho dân tộc. Đó là những đóng góp về tinh thần của thiền phái Tào Động.
Được sự bảo trợ của chính quyền với hai bình tuyến phát triển tại vùng đất Tổ và kinh đô, thiền phái Tào Động đã xây dựng nên hệ thống cơ sở vật chất khá phong phú trong hệ thống chùa tháp Việt Nam. Với hai vùng được xây dựng trong lịch sử, vùng đất Thăng Long cho đến nay còn duy trì khá nhiều di tích cần được điều tra khảo sát tường tận hơn, khẳng định những giá trị lịch sử, đóng góp của dòng Tào Động vào văn hóa Thăng Long trong một thời kỳ lịch sử. Vùng đất Tổ đình Nhẫm Dương cho đến nay nhiều cơ sở vật chất không còn, nhưng dấu tích để lại cho thấy quy mô dù khiêm tốn nhưng đã góp phần khẳng định những giá trị tinh thần và vật chất đóng góp chung vào văn hóa Phật giáo và văn hóa dân tộc. Tại đây cần có kế hoạch phục hồi tôn tạo các di tích trên các địa danh, dấu tích  hiện còn góp phần xây dựng tinh thần Phật giáo trong đời sống văn hóa mới dân tộc: nhân hòa - bác ái, độc lập trên vùng đất địa đầu Đông Bắc của tổ quốc./.


(1- 4) Tuyển tập văn bia Hà Nội' Quyển I: Các vị sư tổ phái Tào Động. NXB KHXH. Hà Nội 1978, tr  118.
(2) Thích Thanh Tứ: Thiền Sư Việt Nam. Thành Hội Phật giáo TP HCM. 1995
(3) Về hành trạng của Tổ Thủy Nguyệt có thể tham khảo:
- Thích Thanh Tứ: Thiền Sư Việt Nam. Thành Hội Phật giáo TP HCM. 1995
- Nguyễn Lang: Việt Nam Phật giáo sử luận. Nxb Văn học. Hà Nội 2000
- Nguyễn Duy Hinh: Lịch sử đạo Phật Việt Nam. Nxb Tôn giáo - Từ điển bách khoa. Hà Nội 2009.
- Sa môn Như Sơn: Thiền Uyển kế đăng lục. Nxb Hồng Đức.Hà Nội 2015
 - Nguyễn Đại Đồng: Phật giáo Việt Nam( từ khởi nguyên đến năm 1981). Nxb Văn học . Hà Nội 2012

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét