Thứ Tư, 31 tháng 12, 2014

THƠ CON CÓC:
KÝ ỨC VÙNG BIÊN

Nửa đêm...

Bàng hoàng. Súng nổ

Xác trẻ thơ dưới chớp đạn...Nhập nhằng

Bên kia sông, tiếng gào thét loạn điên,

Bạn hóa thù?

Đất cha ông phải giữ

Núi dựng thành, rừng cây hóa lũy

Người dân, bỏ cuốc cày cầm súng hóa chiến binh

Dòng máu đỏ, tưới nòng súng đỏ

Cháy trắng trời một dải biên cương.

                                                             Cao Bằng mùa đông 2014

Thứ Sáu, 19 tháng 12, 2014

NGUYỄN NHẠC VỚI VÙNG ĐẤT QUY NHƠN

I Vài nét về vùng đất Quy Nhơn trong lịch sử.
Năm 1472 vùng đất Quy nhơn chính thức gia nhập vào cộng đồng lãnh thổ chung dân tộc, dưới sự quản lý của Quảng Nam thừa tuyên Trấn. Hạt nhân của vùng đất này là huyện Tuy Viễn thuộc phủ Hoài Nhân trong đó huyện Tuy Viễn xa nhất về phía nam tiếp giáp với vùng đất người Chăm quản lý. Năm 1558 Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa và sau đó kiêm luôn trấn thủ Quảng Nam, hình thành nên vùng cát sứ xứ Đàng Trong. Năm 1604, chúa Nguyễn đổi tên phủ Hoài Nhơn là phủ Quy Nhơn. Năm 1611, chúa Nguyễn lấy được phần đất Phú Yên thì vùng đất này mới thực sự nằm sâu trong lãnh thổ người Việt. Lương Văn Chánh làm tri huyện Tuy Viễn .
 Do đồng ruộng màu mỡ, sông biển dễ giao lưu, người Việt đến vùng đất mới ngày càng gia tăng đông đúc, tạo nên sự phồn thịnh trên vùng đất cố đô cũ của người Chăm.Theo Lê Quý Đôn vào cuối thời chúa Nguyễn, phủ Quy Nhơn số người là 26.769, ruộng thực trưng là 72.600 mẫu 5 sào 12 thước 8 tấc 2 phân, Theo Phan Huy Chú: phủ Hoài Nhân “ của cải trong một phủ có phần đầy đủ, cùng với phủ Tư Nghĩa, phủ Thăng Hoa đều gọi là hạt giàu có. Sản vật có nhiều, như: trầm hương, tốc hương, sừng tê, vàng, bạc, đồi mồi, châu báu, sáp ong, đường, mật, dầu, sơn, cau tươi, hồ tiêu, cá, muối, và các thứ gỗ đều rất tốt; thóc lúa không biết bao nhiêu mà kể. Ngựa sinh ra ở trong hang núi, có từng đàn đến trăm nghìn con.” . Cùng với kinh tế nông nghiệp với chính sách mở cửa giao thương với nước ngoài cởi mở của chúa Nguyễn, sự có mặt của các tàu buôn, thương nhân người ngoại quốc: Trung Hoa, Nhật Bản,  Ấn Độ, Hà Lan, Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,ở cảng Nước Mặn, phủ Quy Nhơn cũng trở nên tấp nập,  trở thành một thương cảng lớn ở phía nam. Những hoạt động kinh tế cho thấy vùng đất này khá trù mật, là phủ quan trọng, cung cấp nguồn sức người sức của cho chúa Nguyễn.   
II. Nguyễn Nhạc với vùng đất Quy Nhơn
1.Nguồn gốc:
Theo tài liệu lịch sử cho biết, tổ tiên  Nguyễn Nhạc ở đất Tây Sơn vốn là họ Hồ, người “huyện Hưng Nguyên – Nghệ An, trong khoảng niên hiệu Thịnh Đức ( 1653 –1657) nhà Lê, ông tổ 4 đời của Nguyễn  Văn Nhạc bị quân ta ( chúa Nguyễn) bắt đem cho ở  Nhất  ấp vùng Tây Sơn ( đất Tây Sơn có hai ấp Nhất và Nhị, nay là hai thôn An Khê và Cửu An), đất Quy Ninh..”.Cuộc chiến năm 1648, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Lan, quân Trịnh vượt sông Gianh vào nam, quân Nguyễn phản công, quân Trịnh đại bại, 3 vạn quân bị bắt sống, chúa Nguyễn chia tù binh thành nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm khoảng 50 người, cấp trâu bò, nông cụ, giống má đưa về các vùng để khai khẩn đất hoang. Như vậy khả năng tổ tiên anh em nhà Tây Sơn vốn xuất thân từ tầng lớp quân sự của quân Trịnh bị bắt trong cuộc chiến 1648.Truyền thuyết địa phương  cho biết “ ông cố tên là Hồ Phi Long, vào ở giúp việc nông trang cho nhà họ Đinh thôn Bằng Châu huyện Tuy Viễn.Thấy người họ Hồ  trung hậu cần mẫn, họ Đinh cưới vợ cho(có thuyết bảo là gả con gái) nuôi cả vợ chồng coi như người thân quyến. Họ Hồ sinh được một người con trai đặt tên là Hồ Phi Tiễn. Lớn lên, Hồ Phi Tiễn tỏ ra là người khôn ngoan, lanh lợi, song vì sức yếu nên không thể làm nghề nông. Họ Đinh bèn giúp vốn để đi buôn. Hồ Phi Tiễn gặp người vừa ý là bà Nguyễn Thị Đồng sinh một người con trai là Hồ Phi Phúc. Để con mình được hưởng gia tài và đời đời hương hoả cho họ Nguyễn. Ông bà xin đổi họ cho con mình sang họ Nguyễn. Hồ Phi Phúc đổi họ là Nguyễn Phi Phúc tiếp tục nối nghiệp cha đi buôn trầu, và trở thành một thương gia lớn có uy tín trong vùng.Tại Phú Lạc ông kết duyên với bà Mai Thị Hạnh. Hồ Phí Phúc cùng vợ dời nhà về đất Kiên Thành ven bờ sông Côn để thuận tiện việc kinh doanh. Sinh sống tại ấp Kiên Thành ông Hồ Phi Phúc đã đổi sang họ Nguyễn và cùng bà Mai Thị Hạnh sinh được ba người con. Sử nhà Nguyễn cho biết “ Cha tên Phúc dời về ở ấp Kiên Thành ( nay là thôn Phú Lạc thuộc huyện Tuy Viễn) sinh ra ba người con trai, con trưởng là Nhạc, kế là Lữ, kế nữa là Huệ”
Phổ hệ nguồn gốc Nhà Tây Sơn
Hồ Phi Long
(Vợ là con gái họ  Đinh)

Hồ Phi Tiễn
Vợ Nguyễn Thị Đồng

Hồ Phi Phúc
 (sau đổi họ Nguyễn)
Vợ Mai Thị Hạnh
           
Nguyễn Nhạc – Nguyễn Huệ – Nguyễn Lữ


Kể từ khi họ Hồ có mặt trên vùng đất Bằng châu, huyện Tuy Viễn ( 1648)đến đời Nguyễn Nhạc là 3 đời đã sinh sống trên vùng đất Quy Nhơn và có mối liên hệ mật thiết, rộng rãi với người dân sinh sống ở đây. Như vậy có thể thấy, Nguyễn Nhạc  sinh ra  và gắn bó với vùng đất "chôn nhau cắt rốn" từ năm tháng tuổi thơ
2. Những hoạt động của Nguyễn Nhạc.
2.1. Về năm sinh
Cho đến nay, năm sinh của Nguyễn Nhạc  chưa được biết.
Theo Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập cho biết nhà có 3 anh em trai"...con trưởng là Nhạc, kế là Lữ, kế nữa là Huệ". Nhưng Nguyễn Huệ có tên là gọi khác là Ba Thơm, Nguyễn Lữ có tên gọi là Tư Lữ do vậy có ý kiến cho rằng, nguyễn Huệ là con thứ hai sau Nguyễn Nhạc.
Nếu đúng như theo ghi chép của Đại Nam Liệt truyện thì  Nguyễn Huệ mất "ngày 29 tháng 9 năm 1792 tuổi mới  40"  thì có thể thấy, ông sinh năm 1752 hoặc năm 1753( tính theo tuổi ta) và khi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra năm 1771, Nguyễn Huệ mới 18 hay 19 tuổi .
Theo Đại Nam Thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn thì cho biết Nguyễn Nhạc mất vào tháng 9 năm 1793. Dựa vào sự kiện xảy ra tại thành Hoàng Đế, do bị quân chúa Nguyễn vây thành, Nguyễn Quảng Toản cừ đại binh do Thái Úy Phạm Công Hưng, Hộ giá Nguyễn Văn Huấn, Đại Tư lệ Lê Trung, Đại tư mã Ngô Văn Sở dẫn đại quân vào giải vây, quân chúa Nguyễn phải rút thì cho thấy Nguyễn Nhạc chết vào nửa cuối tháng 9 là hợp lý.Ghi chép của sử nhà Nguyễn những dòng cuối tháng 9 là ghi lại sự kiện này.
 Từ năm mất có thể  suy ra, nếu Nguyễn Huệ là em út thì ít nhất phải kém Nguyễn Nhạc 5 - 6 tuổi và nếu là em kế thì phải kém 2- 3 tuổi. Nếu đúng như thế ông phải sinh khoảng năm 1746 đến 1748. Ông là đời thứ 4 của họ Hồ, năm sinh vào thời kỳ ấy có thể tạm chấp nhận. Như vậy khi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra Nguyễn Nhạc chừng 22 -25 tuổi.
2.2 Về hành trạng và sự nghiệp
Có thể thấy cả cuộc đời Nguyễn Nhạc gắn với vùng đất Quy Nhơn. Theo nhiều nguồn tài liệu lịch sử cùng truyền thuyết dân gian cho biết: Tuổi nhỏ, ông được cha mẹ gửi đi học võ tại lò võ Bằng Châu( Đập Đá- Anh Nhơn), học văn võ cùng  hai em tại ấp An Thái( Tây Sơn) với thày giáo Trương văn Hiến, một môn khách của Ngoại Hữu Trương Văn Hạnh và được phát hiện có tư chất khác người" Hiến lấy làm lạ lùng tài năng của Nhạc". Ông thày đã khuyến khích  với lời sấm" Khởi nghĩa ở Tây( Tây Sơn), thu chiến công ở Bắc" làm động lực ban đầu cho cuộc khởi nghĩa.
Lớn lên kế nghiệp nhà ông đi buôn Trầu “ lấy việc buôn bán Trầu làm nghề nghiệp, thường buôn bán ở miền người Thượng” và âm thầm chuẩn bị xây dựng lực lượng, căn cứ địa trên vùng núi Thượng đạo Tây Sơn. Ông tổ chức các trại khai hoang sản xuất, thu nạp người nghèo khó, cơ nhỡ, những người bị quan quân nhà Nguyễn áp bức truy đuổi lên tham gia. Ông biên chế người thành các trại, lập thành những đội ngũ như dân binh vừa sản xuất vừa luyện binh để phòng khi dùng đến.  Ông lập các kho tích trữ lương thảo, nuôi ngựa
Sơ đồ Trại Ông Nhạc
( Tây Sơn- Thượng đạo)
Suối ông Nhạc
trâu bò. Tranh thủ sự giúp đỡ của những tộc người thiểu số, Nguyễn Nhạc ra sức vận động những người thiểu số, ông mua muối cung cấp cho các buôn làng, đưa trâu bò, giống lúa ngô giúp mọi người cùng sản xuất.Mối quan hệ giữa Nguyễn Nhạc với đồng bào các dân tộc ở đây rất chặt chẽ. . Dấu vết căn cứ địa hiện vẫn còn trên vùng núi Tây Nguyên với những ngọn núi mang tên, núi ông Nhạc, hòn đá ông Nhạc, Sa ông Nhạc... Đồng bào dân tộc ở đây  kính trọng thường gọi ông là Bok Nhạc.
Trên vùng đất Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc tham gia làm Biện Lại ở tuần Vân Đồn. Với mối quan hệ đó Nguyễn Nhạc là người nắm rõ, hiểu về địa hình toàn vùng đất Quy Nhơn từ cửa biển đến vùng núi Tây Nguyên. Đây là điều kiện  thuận lợi cho việc sau này chỉ huy  tiến hành cuộc khởi nghĩa,
Năm 1771 ông dựng đàn tế trời đất phát động cuộc khởi nghĩa trên vùng đất Tây Sơn. Năm 1773 ông tiến quân xuống vùng hạ lưu xung là Đệ Nhất Trại chủ quản lý hai huyện Phù Ly và Bồng Sơn, tiến đánh phủ Quy Nhơn. Trong các trận chiến ông luôn đi đầu" tự ngồi vào cũi...phá cũi mà ra, mở to cửa doanh, đồ đảng thình lình sấn vào, đốt doanh giết tướng mà chiếm giữ thành Quy Nhơn."chiếm cứ được một vùng rộng lớn từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận
Năm 1775 Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ đánh chiếm Phú Yên. Năm 1776 Nguyễn Nhạc cho sai sửa thành Đồ Bàn là trụ sở Bộ chỉ huy nghĩa quân. Ông tự xưng là Tây Sơn vương, đúc ấn vàng, phong cho Nguyễn Huệ làm Phụ chính; Nguyễn Lữ làm Thiếu Phó điều hành quân Tây Sơn. Từ đại bản doanh ông trực tiếp điều hành các đạo quân vào nam ra bắc, điều Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ vào đánh Gia định đập tan cuộc nổi dậy của tàn quân chúa Nguyễn.
 Năm 1778 Nguyễn Nhạc xây xong quốc thành "tự lập làm Hoàng Đế, gọi năm đầu niên hiệu là Thái Đức, gọi thành Đồ Bàn là thành Hoàng Đế” chính thức khai mở một vương triều mới trong lịch sử Việt Nam. Sau khi lên ngôi lập nên vương triều Nguyễn  Nhạc phong cho Nguyễn Huệ là Long Nhương tướng quân, Nguyễn Lữ làm Tiết chế trong triều đình.
. Năm 1784, quân  Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ vào nam dẹp tàn quân chúa Nguyễn cùng đánh tan  3 vạn quân Xiêm La thâm nhập lãnh thổ bảo vệ chủ quyền dân tộc vùng đất phía Nam.
Năm 1786 nhận lệnh từ Nguyễn Nhạc,Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ dẫn hai đạo thủy bộ tiến đánh Phú Xuân, sau khi giành được  thắng lợi, chớp thời cơ, thừa thắng xốc tới, Nguyễn Huệ để Nguyễn Lữ giữ Phú Xuân còn ông đem đại quân tiến ra Bắc, lật đổ chúa Trịnh, giành  đất Bắc Hà.
Năm 1786  Hoàng đế Nguyễn Nhạc phong Nguyễn Huệ là Bắc Bình Vương “ lấy từ cửa Hải Vân ra ngoài cho thuộc về Huệ, Phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương “ cho Gia Định thuộc về Lữ” còn tự mình cai quản vùng đất từ Nam hải Vân đến Bình Thuận “ tự xưng là Trung ương Hoàng đế” thành lập hai ban văn võ quản lý đất nước.
Trong cuộc đời cầm quyền chính của mình, Nguyễn Nhạc chỉ một lần ra đất Bắc với cương vị Hoàng Đế Tây Sơn. Theo Hoàng Lê nhất thống chí cho biết ngày 14 tháng 7 năm 17 năm 1786 Nguyễn Nhạc thân chinh ra Bắc tiếp kiến vua Lê và ở lại đến ngày 17 tháng 8 thì lại về thành Hoàng Đế.
Như vậy có thể thấy, cả cuộc đời Nguyễn Nhạc gắn bó máu thịt với vùng đất kể từ khi sinh ra đến nay ông chỉ mới rời xa Quy Nhơn hơn một tháng. Năm 1793 Nguyễn Nhạc mất tại thành Hoàng đế. Cuộc đời ông đều " sinh tử" trên vùng đất này, vì vùng đất này.
3.Nguyễn Nhạc với vùng đất Quy Nhơn
Những tài liệu lịch sử cùng những bằng chứng vật chất để lại cho thấy, Nguyễn Nhạc là người con sinh ra, trưởng thành gắn bó với  vùng đất. Từ một người buôn trầu với lòng yêu nước, thương dân đã đứng lên trở thành lãnh tụ một cuộc khởi nghĩa. Từ một "Đệ nhất trại chủ" đã vươn lên xây dựng một vương triều mới trong lịch sử Việt Nam. Những năm tháng đó  từ người thương dân, ông đã " cướp của nhà giàu chia cho người nghèo". Khi quản lý vùng đất ông đã tập hợp, quy tụ nhiều nguồn nhân tài, vật lực xây dựng nơi đây thành một trung tâm chính trị văn hóa của dân tộc. Nhiều ngành nghế sản xuất thủ sông hiện còn xung quanh thành Hoàng Đế còn  truyền lại cho đến ngày nay. Thành Hoàng đế sừng sững còn lại đến ngày nay chính là dấu ấn một thời của Trung ương Hoàng đế Nguyễn Nhạc định đô.
Ông là người khởi xướng một phong trào nông dân, xây dựng một vương triều nông dân trên chính vùng đất quê ông. Ông là người khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc của một thời đại, làm nền tảng cho những chiến công huy hoàng . Ông là người giải phóng tài năng cho những con người làm nên lịch sử như Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Vũ Văn Dũng, Ngô Văn Sở...  . Tầng nền "Bệ Phóng" cho những chiến công " nam bình Xiêm, bắc phá giặc" bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống nhất lãnh thổ dân tộc thu về một mối. Chính vì thế, vương triều Nguyễn sau này dù không phủ nhận tài năng, công lao của Nguyễn Huệ đối với lịch sử dân tộc, nhưng hết sức cừu thù với Nguyễn Nhạc, viết nên những dòng lịch sử " nhọ nhem" về ông, cho ông là " chủ mưu" nguồn gốc của tai họa với nhà Nguyễn.Sự trả thù đó tàn độc đến 3 đời sau.
Đối với vùng đất Quy Nhơn kể từ năm ông dựng cờ tế trời đất khởi nghĩa( 1771) đến năm ông mất(1793) là một thời gian không dài lắm, nhưng những năm tháng đó là những tháng năm được ghi vào sử sách dân tộc.  Ngày nay, dấu vết thành Hoàng Đế còn đó, người dân nơi đây vẫn nhớ về, tri ân một con người làm dạng danh một thời kỳ lịch sử- Nguyễn Nhạc./.
TỪ THÀNH HỒ( THANH HÓA) - NHÌN VỀ PHƯƠNG NAM


Năm 1497, dưới danh nghĩa nhà Trần một trung tâm chính trị văn hoá kinh tế mới của nhà nước Đại Việt được dựng xây theo ý đồ của Hồ Quý Ly trên vùng đất phía nam. Sử cũ ghi lại:" Mùa xuân, tháng giêng, sai Lại bộ thượng thư kiêm Thái sử lệnh Đỗ Tỉnh( có sách chép là Mẫm) đi xem đất và đo đạc động An Tôn, phủ Thanh Hoá, đắp thành đào hào, lập nhà tông miếu, dựng đàn xã tắc, mở đường phố, có ý muốn dời kinh đô đến đó..." Đó là chủ ý của Hồ Quý Ly, mặc cho các quan can ngăn nhưng" Quý Ly nói: Ý ta đã định từ trước rồi, ngươi còn nói gì nữa!". Với ý đồ chuẩn bị trước, chỉ trong vòng 3 tháng thành Hồ đã được xây dựng cơ bản xong, với toà thành có quy mô lớn, xây dựng kiên cố vững chắc nhất trong lịch sử dân tộc và  trở thành một trung tâm chính trị, quân thành vào bậc lớn nhất của các vương triều vùng Đông Nam á. Tháng 11 năm 1397 " Quý Ly bức vua  dời đô đến phủ Thanh Hoá"  gọi đây là Tây Đô để phân biệt với Đông Đô đất cũ Thăng Long. Cuộc chuyển đô lần này trong bối cảnh lịch sử khá  đặc biệt. Trong nước vua quan nhà Trần ngày càng tha hóa, mải ăn chơi sa đọa, ít quan tâm đến đất nước, xã hội rối ren, sức dân mòn mỏi." Nhà Trần từ sau khi Dụ Tông hoang dâm phóng túng, lại thêm Chiêm Thành xâm lược quấy rối, thì giặc cướp rất nhiều. Chúng cướp của bắt người giữa ban ngày, pháp luật không thể ngăn cấm được". Ngoài nước: phía Bắc nhà Minh ngày càng vững mạnh, hàng ngày hàng giờ dòm ngó tìm cách xâm lăng hòng đô hộ nước ta một lần nữa . Phía Nam quân Chiêm Thành luôn quấy nhiễu biên thùy; 3 lần đem quân ra tàn phá Thăng Long, khiến cho đất nước rơi vào cảnh quyệt quệ  Cuộc chuyển đô dưới danh nghĩa nhà Trần, nhưng thực chất quyền lực dần chuyển sang tay nhà Hồ.
 Thành Nhà Hồ
Năm 1400 Hồ Quý Ly chính thức lên ngôi đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, tên nước là Đại Ngu, xác định quyền lực chính thống của vương triều Hồ trong lịch sử. Toà thành xây  dựng ở phủ Thanh Hoá trở thành kinh đô của vương triều Hồ- Đại Ngu. Đây là cuộc chuyển đô lần thứ hai trong lịch sử dân tộc.  Lần thứ nhất từ  kinh đô Hoa Lư ra trung tâm đất nước Thăng Long. Lần thứ hai sau gần 4 thế kỷ kinh đô của đất nước  lại chuyển dịch về phương nam mang khát vọng của cả một vương triều trong lịch sử dân tộc.
. Khát vọng xây dựng một quốc gia độc lập hùng cường, đủ sức " cự bắc - bình nam", là một nhu cầu bức thiết đặt  trọng trách lên vai người sáng lập vương triều là Hồ Quý Ly. Việc chuyển đô là một xu thế tất yếu của lịch sử để đáp ứng được nhu cầu ấy.
Sau cuộc mở rộng lãnh thổ xuống phương nam của nhà Trần, năm 1306 hai châu Ô Lý( vùng đất Thừa Thiên - Huế ngày nay) hộp nhập vào quyền quản lý chung của  nhà nước Đại Việt. Trên vùng lãnh thổ trải dài ấy, vùng đất phương nam xa xôi trở thành vùng biên viễn xa chính quyền Trung ương quản lý. Chính vì thế việc dời đô về trung tâm vùng đất quản lý là việc làm cấp thiết và địa bàn phủ Thanh Hoá là thích hợp. Đây không những là nơi " cố thổ" của họ Hồ mà định đô nơi đây nằm ở vị thế cân độ đường nam- bắc. Từ kinh đô, Hồ Quý Ly  có đủ điều kiện thực hiện khát vọng phục hưng dân tộc sau một thời kỳ xã hội rối ren vào cuối thời Trần.
Trong thời gian ngắn ngủi 1400 - 1407 ấy với mục tiêu chấn hưng đất nước, nhà Hồ đã tiến hành nhiều cải cách thể chế quan trọng. Khởi hưng từ lúc Hồ Quý Ly với tư cách Phụ chính cai giáo Hoàng Đế đã tiến hành nhiều cải cách kinh tế quan trọng: phát hành tiền giấy đổi tiền đồng,  thực thi chính sách hạn nô cùng chính sách hạn điền để nới rộng sức sản xuất trong dân, tiến hành thanh lọc quan lại " bí mật dò hỏi người hay kẻ dở trong quan lại, việc lợi việc hại ở dân gian để tiến hành việc giáng truất hay thăng bổ, quy định thành thể thức lâu dài" và cao hơn năm 1401 " Hán Thương định hình luật và quan chế nước Đại Ngu". Năm 1402" Hán Thương định lại các lệ thuế và tô ruộng.. Đặt nhã nhạc .Năm 1404 tổ chức thi chọn nhân tài vv... Những chính sách tiến bộ đó nhằm  xây dựng một  nhà nước hùng cường với mục tiêu Cự Bắc - bình Nam, giữ vững nền độc lập dân tộc, mở cõi xuống phương Nam.
1. Nhà Hồ với chủ trương Cự Bắc:
Năm 1368 Chu Nguyên Chương lên ngôi, sáng lập ra nhà Minh một triều đại thịnh trị của Trung Quốc.Sau khi thống nhất ổn định trong nước, nhà Minh luôn tìm cách nhòm ngó láng giềng hòng biến nước ta lệ thuộc một lần nữa. Hiểu rõ dã tâm xâm lược, ngay từ khi lên ngôi nhà Hồ với ý thức bảo vệ chủ quyền độc lập dân tộc đã ra sức củng cố binh bị nhằm chuẩn bị chống xâm lăng giữ vững chủ quyền .
 Việc xây dựng quân đội và chuẩn bị binh bị là chủ tâm xuyên xuốt trong thời gian nhà Hồ quản lý đất nước. Sử cũ ghi lại với khát vọng "làm thế nào có được 100 vạn quân để chống giặc Bắc". Năm 1401 " Hán Thương sai làm sổ hộ tịch trong cả nước" để chủ động quản lý dân số, huy động quân binh khi tổ quốc bị xâm lăng. Tổ chức quân đội biên chế chặt chẽ giữ kỷ luật thống nhất "Hán Thương định quân Nam ban và Bắc Ban chia thành 12 vệ; quân Điện hậu đông và tây chia thành 8 vệ; mỗi vệ 18 đội, mỗi đội 18 người; đại quân thì 30 đội, trung quân thì 20 đội, mỗi doanh là 15 đội, mỗi đoàn là 10 đội; cấm vệ đô thì 5 đội. Đại tướng quân thì thống lĩnh cả.".
 Đạn đá các loại dùng cho súng Thần công tại thành Hồ
 Tiến hành xây dựng trang bị quân dụng , xây thành, bố phòng nơi hiểm yếu là việc làm thường xuyên.Năm 1404" Hán Thương đóng thuyền đinh sắt để phòng giặc phương bắc, có hiệu là Trung Tàu tải lương, Cổ lâu thuyền tải lương, chỉ mượn tiếng là chở lương thôi, nhưng bên trên có đường sàn đi lại để tiện việc chiến đấu". Năm 1405"... cho các quân đóng cọc ở các cửa biển và những nơi xung yếu trên sông cái để phòng giặc phương Bắc"
"Hán Thương đặt 4 kho quân khí. Không kể là quân hay dân, hễ ai khéo nghề đều xung vào làm việc". Đặc biệt thời kỳ này Hồ Nguyên Trừng đã sáng chế cải tiến súng Thần công thành một hoả lực lợi hại.
Hán Thương sai Thái thú Đông lộ là Hoàng Hối Khánh đốc xuất dân phu đắp thành Đa Bang để chống giặc." Sai quân vệ Đông Đô đóng cọc chặn cửa sông Bạch Hạc để chống giặc từ Tuyên Quang đến..."
Khi nạn ngoại xâm cận kề " Hán Thương chiếu truyền An phủ xứ các lộ về triều cùng với các quan ở kinhbàn nên đánh hay nên hoà. Hội nghị " Diên Hồng lịch sử lần ths hai chống ngoại xâm diễn ra tại thành Hồ, kinh đô thuở ấy. Nơi đây đã ghi lại câu nói bất hủ của Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng" Thần không sợ đánh chỉ sợ lòng dân không theo thôi"
Mặc dù có ý thức, chuẩn bị khá đầy đủ, nhưng những hạn chế của lịch sử đã khiến triều Hồ  chống xâm lăng thất bại. Nước ta rơi vào vòng nô lệ của giặc Trung Hoa lần nữa. Nhưng bài học lịch sử vẫn thấm đẫm tinh thần dân tộc ngoan cường Cự Bắc của một triều đại, mà thành Hồ là hạt nhân, tâm điểm của cuộc kháng chiến bi thương ấy.
 Tượng rồng đá thành Hồ bị chặt đầu
2. Từ thành Hồ nhìn về phương Nam.
Là quan đại thần nhà Trần từng cầm quân đi chinh phục phương Nam, Hồ Quý Ly hiểu rõ, sự mở cõi, thống nhất lãnh thổ là nhu cầu tất yếu, hội nhập dân tộc  để tạo nên nền tảng sức mạnh tự cường. Chính vì thế nhìn về phương nam là hành động xuyên xuốt chi phối những hoạt động của nhà Hồ trong  thời gian cầm quyền dân tộc. Việc chuyển đô về thành Hồ, ngoài ý nghĩa xây dựng kinh đô mới trên vùng đất "cố thổ" thì đây cũng là vùng đất trung tâm gần hơn nhìn về phương nam trong quá trình mở cõi. Từ thành Hồ nhiều cuộc hành binh đã tiến xuống phương nam. sử cũ ghi lại trước khi nhường ngôi cho con, tự xưng là Thượng Hoàng, cuối năm 1400 từ thành Hồ, " Quý Ly lấy hành khiển Đỗ Mãn làm Thuỷ quân đô tướng, tướng chỉ huy quân Thánh dực là Trần Văn( sau được ban họ Hồ) làm đồng Đô tướng; tướng chỉ huy quân Long Tiệp là Trần Tùng( được ban họ Hồ) làm Bộ quân đô tướng; tướng chỉ huy quân Tả Thánh Dực là Đồ Nguyên Thác làm Đồng đô tướng đem 15 vạn quân đi đánh Chiêm Thành". Năm 1401 lại cử "Hồ Tùng đi đánh Chiêm Thành". Đặc biệt hơn khi Hồ Hán Thương lên ngôi đã đích thân cầm đại quân đi đánh Chiêm Thành. Năm 1402  tháng 7 Hán Thương đem đại quân đi đánh Chiêm thành, phần đất Chiêm Động( Quảng Nam- Đà Nẵng) ngày nay được sát nhập vào lãnh thổ chung dân tộc. Cùng năm đó phần đất động Cổ Luỹ( Quảng Ngãi ngày nay) lại hội nhập vào lãnh thổ chung do nhà Hồ quản lý. Thừa thắng năm  1403 Hán Thương đóng thuyền đinh nhỏ để đánh Chiêm Thành. Một đạo quân đông đảo gồm thuỷ bộ 20 vạn người được huy động tiến đánh đến tận kinh đô Chà Bàn( Bình Định ngày nay) với dự định sát nhập một vùng lãnh thổ phương nam rộng lớn" dự định phân chia các đất Bản Đạt Lang, Hắc Bạch và SaLi Nha từ Tư Nghĩa ( Quảng Ngãi)trở  về nam đến biên giới Xiêm La làm châu huyện.. Nhưng tiếc thay " các quân vào đất Chiêm làm nhiều chiến cụ, vây thành Chà Bàn sắp lấy được, nhưng vì quân đi đã chín tháng, hết lương ăn, không thắng phải rút về". Như vậy trong vòng 7 năm cầm quyền, nhà Hồ đã  4 lần rầm rộ tiến quân về phương nam mở rộng lãnh thổ.
Để xây dựng củng cố vùng đất mới nhà Hồ thi hành nhiều chính sách tích cực khẳng định vị thế của vương triều. Năm 1402 "Hán Thương cho đắp sửa đường xá từ thành Tây Đô đến Hoá Châu" để thuận tiện đi lại đẩy mạnh giao thông từ kinh đô đến vùng đất mới. Vùng đất mới gia nhập được nhà Hồ" chia đất ấy thành 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa". Cắt cử quan lại cai quản" đặt An phủ sứ và An phủ phó sứ lộ Thăng Hoa để cai trị". Cùng với việc cử quan lại, nhà Hồ còn sử dụng những quan lại cữ người Chăm tham gia quản lý vùng đất" Hán Thương lấy Hiệu Chính Hầu Chế Ma Nô Đà Nam làm Cổ Luỹ huyện thượng hầu, trấn giữ châu Tư Nghĩa, chiêu dụ, vỗ về dân chúng người Chiêm". Tổ chức chia phần đất mới được sát nhập thành những đơn vị hành chính Lộ, phủ, châu huyện để quản lý chặt chẽ, thống nhất.
 Cùng với chính sách an dân, để tăng cường sức sống cho vùng đất mới năm 1403 nhà Hồ còn thực hiện chính sách khuyến khích  di dân đến ở vùng đất mới " đem những người không có ruộng mà có của dời đến Thăng Hoa biên chế thành quân ngũ. Quan lại ở các lộ, phủ, châu, huyện chia đất cho họ ở... mộ dân nộp châu để cấp cho dân mới dời đến ở Thăng Hoa, người nộp được ban tước.".
 Kể từ  đầu thế kỷ XIII( năm 1306) khi vùng đất Thuận châu, Hoá Châu ( Thừa Thiên - Huế ngày nay)hội nhập vào cộng đồng lãnh thổ chung, thì đây là thời kỳ sự hội nhập lãnh thổ mạnh mẽ nhất, với không gian rộng lớn cả một vùng Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa( Quảng Nam, Quảng Ngãi ngày nay) rộng lớn, màu mỡ, giàu sản vật đã trở thành một phần lịch sử và văn hóa chung của dân tộc. Đó chính là những thành tựu mở cõi mà nhà Hồ từ thành Tây Đô nhìn về phương nam với khát vọng thông nhất lãnh thổ chung dân tộc. Tiếc thay, sự nghiệp này gián đoạn, bởi cuộc xâm lăng của nhà Minh. Nhưng giá trị lịch sử về tầm nhìn của vương triều Hồ từ thành Tây Đô đã chuyển tải khát vọng thống nhất lãnh thổ cho thế hệ sau thực hiện để có diện mao giang sơn đất Việt thống nhất ngày nay.
Một vương triều dù thời gian tồn tại không dài, nhưng thể hiện những khát vọng của một dân tộc tự cường, nhà Hồ đã điểm một dấu son trong lịch sử dân tộc, mà thành Tây Đô là hạt nhân, nơi hội tụ và thể hiện những khát vọng ấy./.

Thứ Năm, 18 tháng 12, 2014

MỸ SƠN - THUNG LŨNG THẦN LINH
( tiếp theo)
26.Triều đại nào xây dựng nhiều nhất ở Mỹ Sơn?                                              
 27.Vị vua nào đã đóng góp nhiều nhất ở Mỹ Sơn?                                             
 28.Tại sao gọi Mỹ Sơn là thung lũng của thần linh?                                          
29. Kỹ thuật xây dựng ở Mỹ Sơn đặc sắc như thế nào ?                                     
30 . Mỹ Sơn có vị trí như thế nào trong văn hóa Champa?
31. Mỹ Sơn có giá trị như thế nào trong các di tích vùng Đông Nam Á
32. Mỹ Sơn được hồi sinh như thế nào?                                                               
Thay lời kết luận                                                                                                 
Mục lục                                                                                                             
Tài liệu tham khảo chính                 


26.TRIỀU ĐẠI NÀO XÂY DỰNG NHIỀU NHẤT Ở MỸ SƠN?
    Trong 8 nhóm tháp chính với trên 70 công trình kiến trúc hiện còn tài liệu và hiện trạng di tích hiện nay có thể thấy cả một tiến trình xây dựng theo suốt chiều dài lịch sử gần 1000 năm trong nghệ
Bệ thờ nhóm tháp G
thuật kiến trúc, điêu khắc Champa. Dựa vào nguồn tài liệu này có thể phân định ra các giai đoạn nghệ thuật kiến trúc khác nhau để tìm ra sự cống hiến của các triều đại Champa vào việc xây dựng, tu bổ khu thánh địa của tộc người Chăm trong lịch sử. Trước hết theo dòng lịch sử người Chăm có các vùng đô cũ kế tiếp nhau. Kinh đô Trà Kiệu ( Quảng Nam) được xác lập kể từ khi người Chăm giành độc lập đến nửa đầu thế kỷ VIII, với tên gọi Simhapura. Từ nửa cuối thế kỷ VIII đến nửa đầu thế kỷ IX, người Chăm định đô tại vùng đất
Trang trí cột cửa tháp B6
phía nam Champa với kinh đô là Virapura( Ninh Thuận). Nửa cuối thế kỷ IX đến cuối thế kỷ X, người Chăm lại quay về định đô ở Đồng Dương ( Quảng Nam) với tên gọi Inđrapura. Những năm cuối thế kỷ X ( năm 998) đến thế kỷ XV( năm 1471), người Chăm định đô tại vùng đất Vijaya (Bình  Định). Mỗi thời kỳ lịch sử được người ta gọi ngắn gọn là các vương triều theo địa điểm định đô: vương triều Simhapura; vương triều Inđrapura hay vương triều Vijaya vv… Dựa vào những tên gọi và năm tháng tồn tại của các vương triều, chúng ta thử tìm về xem vương triều nào xây dựng để lại dấu ấn nhiều nhất tại Mỹ Sơn. Với những công trình kiến trúc còn lại có thể thấy dấu vết của vương triều Simhapura với biểu trưng để lại là hình ảnh Sư tử chỉ còn lại dấu vết trên trang trí đế kiến trúc tháp F1. Vương triều Virapura để lại dấu ấn trên kiến trúc tháp C7 với hình ảnh vòm cuốn cửa giả cuốn tròn thuộc phong cách nghệ thuật  Hòa  Lai. Vương triều Inđrapura để lại dấu ấn trên hầu hết các công trình kiến trúc hiện nay ở Mỹ Sơn gồm các tháp nhóm B- C – D- A’. Những công trình kiến trúc có quy mô lớn nhất, khắc tạc đẹp nhất đều thuộc thời kỳ vương triều này trị vì vào thế kỷ IX – X, như tháp A1; C1; C2, C3; B3, B5; B6, B7; D1, D2; F1, F2; E 6, E7 vv…Điều dễ nhận thấy là hình ảnh đầu voi được trang trí trên các tháp C1, B5 mang ý nghĩa là thần Voi vật cưỡi của thần Inđra đồng nghĩa với kinh đô Inđrapura
Linga nhãm th¸p A
. Vương triều Vijaya để lại dấu ấn trên các kiến trúc nhóm tháp H; G; K. Như vậy có thể nói  thời kỳ vương triều Inđrapura kéo dài gần hai thế kỷ, Mỹ Sơn được quan tâm chú trọng xây dựng nhiều nhất, mang vẻ đẹp huy hoàng, hoàn chỉnh nhất cho khu tôn giáo quan trọng này. Thế kỷ IX. có thể coi là giai đoạn đầu bùng nổ của nghệ thuật Champa trên các lĩnh vực, đặc biệt nghệ thuật kiến trúc tháp. Thời kỳ này lịch sử Champa được tiếp nối bởi vương triều vua
Trang trí bệ thờ nhóm tháp A
Harivarman I,với kinh đô Virapura nằm ở miền nam Chăm.Ông  đã nhiều lần dẫn quân ra phía bắc đánh phá trị sở của quan lại Trung Hoa vào các năm 803, 809, thu nhiều chiến lợi phẩm . Tấm bia ở Ponaga do ông dựng đã viết lên dòng chữ kiêu ngạo “ cánh tay dài của ông là mặt trời đốt cháy thuộc dân Trung Quốc đang ở cõi tối tăm”.Về phía nam ông tiến hành đánh phá các thành thị của Khmer, “ nhờ sức mạnh vô địch của cánh tay, ông đến tận giữa xứ Cao Miên”,cướp bóc của cải, thu hồi nhiều chiến lợi phẩm. Đây là thời kỳ vương quốc Champa ổn định và phát triển trên nhiều lĩnh vực, sự đe doạ  từ các đế chế phong kiến từ phía nam và phía bắc hầu như không có, của cải trong nước và thu được qua chiến tranh,ông dành phần lớn cho việc hiến tặng xây dựng các cơ sở tôn giáo.Thời kỳ này ông đã cho xây dựng nhiều ngôi đền thờ thần. “Năm 813 và 817 ông dựng một ngôi đền thờ Linga của CriShandhaka, một đền khác thờ Ganêsa Cri Vinayaka và một ngôi khác thờ vị thần Cri Malada – Kauthara và làm cho mỗi đền một cái cổng có gác trang
Trang trí bệ thờ nhóm tháp A
trí lộng lẫy”. Ông cúng cho thần “ những của cải bằng vàng, bạc,châu báu, quần áo thêu…lại cúng ruộng cùng với nô lệ nam nữ, trâu…”. Con ông lên nối ngôi là vua Vikrautavarman III thừa hưởng những thành quả của cha ông để lại.Vua Vikrautavarman III tiếp nối cúng cho thần “ những vật quý giá, ông dựng một Cri Mahadevecvara, cúng cho ông một đền và nhiều của cải, rồi lại cúng những động sản và những kho thóc…”. Đây là thời kỳ hai đời vua  trong điều kiện hoà bình và sự phát triển của nền kinh tế đã liên tiếp cho xây dựng các đền tháp, cúng nhiều tài sản cho thần linh. Ông mất khoảng năm 854. Nửa sau thế kỷ IX, người Chăm lại chuyển đô về vùng đất phía bắc, với nơi định đô mới là Inđrapura ( Đồng Dương- Quảng Nam). Tấm bia tại Đông Dương niên đại vào năm 875 cho biết vua Inđravarman II lên kế vị Vikrautavarman III đã định đô tại Đồng Dương và là người lập nên vương triều Inđrapura. Vừa lên ngôi, ngoài việc kế thừa xây dựng lại thành phố Inđra “ thành thị được trang sức bằng thành thị Inđra rất đẹp, lóng lánh những hoa sen trắng, những hoa sen đẹp nhất, thành thị đó do Bhrgu sáng lập trong thời cổ…”, ông đã cho xây dựng một ngôi đền
Trang trí bệ thờ nhóm tháp A
và một tu viện Phật giáo. Thời kỳ này “ vương quyền trong sự phong túc”, đất nước Champa trở nên thịnh vượng. Ông cho xây dựng nhiều đền tháp khắp nơi, đặc biệt ở Mỹ Sơn trung tâm tôn giáo của vương quốc và những vùng phụ cận. Noi gương ông, nhiều quan lại đại thần trong triều cũng tổ chức xây dựng các đền tháp trong khắp đất nước, các bia ký để lại ở Bắc Hạ ( Quảng Bình); Hà Trung ( Quảng Trị); Lai Trung, Phú Lương ( Thừa Thiên – Huế); Đồng Dương, Hoá Quê, Bàn Lãnh ( Quảng Nam); Ponaga ( Khánh Hoà) Yang Tikuh ( Ninh Thuận)… cho biết các vị quan đại thần cũng về quê dựng đền thờ thần Siva. Bia Phú Lương cho biết “ những người Padaraksa đã lập Lingabhumi tại làng của mình để hướng về nhà vua tài giỏi bằng trái tim sùng kính của mình”, hay bia Lai Trung nói về vị thượng thư đã dựng nên ngôi đền thờ Siva coi là “ việc làm đáng ca ngợi cho sự giải phóng bản thân mình cùng cha mẹ của ông khỏi biển khổ cuộc sống” .Bia Hoá Quê nói về dòng tộc có 3 người làm quan
Đế tượng
đại thần trong triều đã dựng đền thờ thần Shiva. Lược qua những tư liệu trên cho thấy thế kỷ IX, mặc dù có sự biếnđộng chuyển đô của người Chăm, nhưng có thể thấy đây là thời kỳ dựng xây rầm rộ các kiến trúc Champa, một thời kỳ phát triển song hành cả Ấn Độ giáo
Linga – Yony nhóm tháp B
và Phật giáo. Để có sự phát triển này, ngoài sự phát triển về kinh tế trong nước thời kỳ này người Chăm vươn ra buôn bán với các nước trong khu vực khá nhộn nhịp, bên cạnh việc buôn bán thúc đẩy kinh tế phát triển thì những cuộc tiếp xúc văn hoá, đặc biệt với các quốc gia Đông Nam Á cùng chịu ảnh hưởng văn hoá Ấn Độ đã ảnh hưởng đến văn hoá Champa khá rõ nét. Văn bia Champa( bia Nhan Biều) thời kỳ này cho biết có nhiều vị quan lại trong triều đã ra nước ngoài hành hương, mang những ảnh hưởng của kiến trúc Inđônexia đến kiến trúc Champa như vị thượng thư Rajadvara.Tài

Cột kiến trúc tại Mỹ Sơn ( bản vẽ phục dựng)
liệu khảo cổ học khai quật tại Bãi Làng- Cù Lao Chàm ( Quảng Nam),  Nam Thổ Sơn ( Đà Nẵng) tìm được khá nhiều gốm, sứ , sành, gương đồng  Trung Hoa, đồ gốm Islam, thuỷ tinh Islam có nguồn gốc vùng Tây á, hay hạt chuỗi thuỷ tinh, đá quý có nguồn gốc các nước Đông Nam Á đã cho thấy nền kinh tế thời kỳ này khá phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng các kiến trúc tôn giáo. Chính vì thế, cho đến nay các kiến trúc thuộc thế kỷ IX còn lại khá nhiều, bên cạnh đó còn hàng loạt các phế tích kiến trúc như Đại Hữu, Trung Quán ( Quảng Bình); Ưu Điềm ( Thừa Thiên – Huế)vv…, phản ánh một thời kỳ dựng xây rầm rộ các công trình kiến trúc Champa. Thế kỷ X, là một giai đoạn phát triển rực rỡ của nghệ thuật kiến trúc tháp Champa thời kỳ này người Chăm dựng xây khá nhiều tháp, nhiều kiến trúc đạt đến trình độ kỹ thuật, mỹ thuật cao được coi là đỉnh cao của nghệ thuật kiến trúc tháp Champa. Thế kỷ X, người Chăm vẫn định đô ở Inđrapura ( Đồng Dương), kế thừa thành tựu của các vị vua trước, các vua Champa thời kỳ này tiếp tục, xây dựng nhiều công trình kiến trúc trong điều kiện xã hội tương đối ổn định và kinh tế phát triển khá rầm rộ trên nhiều lĩnh vực.Theo sử liệu cho biết thế kỷ X có 6 vị vua trị vì tại
 Bệ Yony  khối tròn
Đồng Dương gồm các đời vua: Sri Jaya Sinhavarman I ( năm 898 – 908) được biết đến qua các bia để lại tại Châu Sa ( Quảng Ngãi- năm 893); Bàn lanh ( Quảng Nam) và Đại Hữu ( Quảng Bình) .Jaya Saktyavarman ( 908- ?) biết đến qua bia Nhan Biều ( Quảng Trị); Sri Bhadravarman III ( 908 – 916) biết đến qua các bia Châu Sa (Quảng Ngãi),Bằng An; Hoá Quê (Quảng Nam), Nhan Biều (Quảng Trị); Inđravarman III ( 917 – 960?) biết đến qua các bia Ponaga ( Khánh Hoà); Lai Trung ( Thừa Thiên – Huế); Jaya IndravarmanI ( 960 – 972?) và Phê Mi Thuế( 972 - ?) (1). Đây là thời gian có thể nói là khá “yên tĩnh” trong lịch sử Champa, một thời kỳ ổn định. Phía bắc dân tộc Việt bước đầu giành được độc lập ( năm 938) chặn được bước tiến xuống phía nam của đế chế phong kiến Trung Hoa
Đế chân cột
và đang ra sức củng cố nền độc lập, phục hưng nền văn hoá dân tộc làm tiền đề tạo nên văn minh Đại Việt toả sáng. Phía nam nhà nước Chân Lạp xuất hiện  đang từng bước dựng xây hình thành nên nền
Tháp Mỹ Sơn A’ 2( ảnh chụp đầu thế kỷ XX)
văn minh ĂngKo rực rỡ. Đây cũng là thời gian mà tộc người Chăm nỗ lực vươn lên trên mọi lĩnh vực mà sau này có ý kiến cho rằng đó là thời kỳ “cất cánh” của người Chăm trong đó có lĩnh vực kiến trúc.Trong khoảng một thế kỷ này có thể thấy thời kỳ hai vị vua trị vì là IndravarmanIII và Jaya Inđravarman I ( 917 – 972) là thời kỳ thịnh trị nhất, có nhiều đóng góp vào diện mạo kiến trúc tháp Champa.  Indravarman III theo bi ký cho biết ông là người đã tạc tượng thờ Bhagavati tại Ponaga, là người đánh Chân Lạp ( 945 –947). thu nhiều chiến lợi phẩm Về kinh tế, đây là thời kỳ hải thương Champa phát triển khá rầm rộ buôn bán với nhiều nước trong khu vực và xa hơn là Trung Hoa, Ấn Độ, các nước Trung Á. Sản xuất trong nước phát triển không những về nông nghiệp mà thủ công nghiệp có nhiều bước phát triển mới. Ngoài những kiến trúc, hiện vật điêu khắc đá vô cùng phong phú được biết, tài liệu khảo cổ học
Trang trí mi cửa nhóm tháp A
cho thấy nhiều hiện vật kim loại màu vàng, bạc, đồng được chế tác tinh xảo chứng tỏ trình độ kỹ thuật của người thợ thủ công thời kỳ đó . Cuộc khai quật khảo cổ học gần đây tại Núi Chồi ( Quảng Ngãi) tìm thấy một trung tâm sản xuất gốm với sản phẩm là các phù điêu gốm mang nội dung Phật giáo được chế tác hàng loạt, nung trong lò nung hoàn chỉnh chứng tỏ nghề sản xuất gốm Champa giai đoạn này có bước phát triển tiến bộ vượt bậc . Về văn hoá qua buôn bán trao đổi họ có giao lưu mật thiết với các quốc gia trong vùng, đặc biệt là GiaVa mà theo bi ký ở Nhan biều cho biết vị quan Po Klun Pilih Rajadvara đã phục vụ 4 đời vua và hai lần đi JaVa để học những khoa học thần bí. Những điều kiện đó là cơ sở thuận lợi để người Chăm tiến hành xây dựng các công trình kiến trúc tôn giáo trong thời kỳ này. Cho đến nay những kiến trúc giai đoạn này còn lại không nhiều, phần đổ nát theo thời gian, phần bị chiến tranh tàn phá kể cả những kiến trúc trước đây được coi là thể hiện nghệ thuật điêu khắc trên gạch đặc sắc nhất vùng Đông nam Á như tháp Mỹ Sơn A1 . Những tháp hiện còn tập trung chủ yếu tại địa bàn Quảng Nam, đặc biệt là tại thung lũng Mỹ Sơn, nhưng có thể nói đây là những công trình có khối xây đẹp nhất, khắc tạc tinh tế nhất.

 Trang trí đế bệ thờ
27 VỊ VUA NÀO ĐÃ ĐÓNG GÓP NHIỀU NHẤT Ở MỸ SƠN?
            Dựa vào hai nguồn tài liệu hiện biết về Mỹ Sơn trong lịch sử : bi kí và tài liệu vật chất, bước đầu chúng ta thử tìm về vai trò của vị vua nào đã đóng góp xây dựng tại Mỹ Sơn nhiều nhất?
Tài liệu bia kí cung cấp cho chúng ta một phổ hệ danh sách các vị vua cho xây dựng và cung tiến tài sản quý để hình thành nên diện mạo khu thánh địa quan trọng này. Trước hết là vua Bhađravađman I ( Bia Mỹ Sơn I- Thế kỷ IV - V) là vị vua đã dâng hiến, xác định rõ một vùng đất dâng cho thần linh vùng Mỹ Sơn ngày nay. Tiếp theo là vua Sambhuvarman( Bia Mỹ Sơn II- Thế kỷ VII) người đầu tiên cho xây các công trình kiến trúc thờ thần bằng vật liệu bền vững. Vua  Prakasadharma – Vikrantavarman ( Bia Mỹ Sơn III – nửa cuối thế kỷ VII)dâng cúng những tặng vật lên thần linh. Vua Prakasađhadma( Bia Mỹ Sơn IV – năm cuối thế kỷ VII) dựng đền thờ thần và lần đầu tiên dâng cúng những Mukuta, Kosa bằng kim loại quý. Bia sốVII nói về vua Vikranta varma dâng lên một pho tượng bằng vàng. Đây có lẽ là pho tượng bằng vàng đầu tiên được ghi chép trong văn bia ở Mỹ Sơn. Những năm tiếp theo văn bia cho biết nhiều vị vua Champa dâng tặng thần linh ở
Bậc cửa kiến trúc ở Mỹ Sơn
đây nhiều tài sản hiện vật quý. Bia số XII cho biết “Vua Harivarrman đã cúng vào đây “ Một Kosa bằng vàng dát những viên ngọc đẹp nhất, rực rỡ sáng hơn mặt trời, toả sáng suốt ngày đêm bằng ngọc phát quang, có trang điểm cả 4 mặt ” .Ít lâu sau ông lại cúng một Kosa khác “ một cái Kosa vàng, đẹp hơn của mặt trời mặt trăng với những mặt đính ngọc trai, những ngọn đèn soi bộ mặt của những miền không gian”. Sau này ông lại tiếp tục cung tiến “ 1Kosa vàng, dát cả 4 mặt…có đủ thứ châu báu. .. ngài cúng một bộ ( trang sức)…và ngài cúng một mũ miện dát ngọc; 2 vòng;4 Kami; 2 kalasa vàng; 2 vrah kalasa vàng; 8 vrah kalasa bạc;4 suvauk…8suvauk bạc; 8…bạc; 8tapanah bạc; 3 tralay bạc; 2sanraun bạc; 4paligah bạc;2 hộp bạc; 2von bạc; 1mayur vàng;1 mayur bạc;1 havvai vàng; 1havvai bạc;2 tralai…1paligah languv; 1lusungoox đàn hương; một đầu bằng gỗ đàn hương …và người còn cúng cả người, các loại khác nhau…nam tôi , nữ tì ,hàng trăm bò , trâu, voi và những của cải khác cho thần Srisanabhađrêxvara ”
 Chóp tháp góc
Bia số XVI viết ““ Đức vua Sri Jaya Inđravácmađêva biết rằng thần Bhađrêxvara ( thần Siva) là chúa của muôn loài hữu hình trên thế giới naỳ đã cho làm Kosa vàng có 6 mặt ( Sanmukha) có dát Naga ( thần Rắn) và những viên ngọc nhiều màu sắc dính ở đầu vương miện. Và cái vật mà người ta gọi là urdhvakosa thì bằng vàng tuyệt đẹp. Và người ta làm một giá đỡ bên dưới, với một viên đá mặt trời (Suryakanti) ở trên đỉnh vương miện. Mặt hướng đông có một viên hồng ngọc …ở đỉnh vương miện và chỗ trang trí Nagaraja. Mặt hướng đông bắc và hướng đông nam có một viên bích ngọc trong mắt của Nagaraja. Mặt hướng nam có một viên hồng ngọc …ở đỉnh vương miện. Mặt hướng tây có một viên hồng ngọc ..ở đỉnh vương miện. Mặt hướng bắc có viên ngọc trai… Cái Kosa vàng này nặng 314 Thil, 9dram…vàng; 6 mặt với vương miệnNagaraja ở trên…nặng 136Thil; cộng tất cả là 450 Thil 9dram” Bia số XVII nội dung cho biết “dưới triều vua Sri Haravacsmađêva cháu của vua Sri Jaya Inđravácmađêva...Đức vua Harivacmađêva
Hệ thống chân tảng còn ở Mỹ Sơn
 …cho dựng một đền và tiếp đó một đền khác. Ngài cho làm …bằng bạc. Ngài làm tất cả những cái đó 2 lần trong năm saka này. Ngài xây một Prasada ( tháp) cúng thần Srisanabhađrêxvara và ngài cúng : 1 sunok vàng 190 thil; hợp kimbạc nặng 49thil; 1dradik vàng 62 thil; 7 vòng cổ vàng nạm ngọc 22thil 8dram; 1paduh vàng 30 thil; ; hợp kimbạc nặng 40thil; 1trahayvàng 98thil3dram; sảnonvàng 88thil 8dram; 1kalasa ( ấm)vàng; 1ayan vàng 46thil; hợp kim bạc 100thil….penda 400thil; saron bạc 4penda 420 thil; huluy sanron 12 thil…vàng 4…9dram bạc; 908 thil… tháp…1109 thil .
Bia số XXIV thông tin về đức vua  “ Đức vua này Sri Jaya Inđravacmađêva sinh trưởng từ miền đất nổi tiếng Gramapuravijaya…. Biết rằng Srisanabhađrêxvara là một phần của
Hệ thống cột đá còn lại ở Mỹ Sơn
Shiva, thường xuyên ban ân huệ cho những người sùng kính trong toàn vũ trụ theo sở nguyện của họ-đã cúng tất cả của cải đồ vật thường dùng cho Srisanađrêxvara để gia tăng niềm sùng tín cho mọi thời” .Trong nhiều năm liên tiếp ông đã cúng  nhiều của cảI, tài sản
Tượng Shiva kim loại Champa
cho  vị thần:”.Đây là vị vua cúng nhiều của cải nhất cho Mỹ Sơn được coi là người làm giàu và đẹp, trả lại vị trí, giá trị của trung tâm tôn giáo này sau nhiều năm bị chiến tranh tàn phá.
 - Năm 1171 ( năm 1095saka) “ ông đã cúng một Kosa vàng nặng 137 thil với hợp kim bạc nặng 200 thil, nạm ngọc như dhunl và bích ngọc ”
- Năm 1172(năm 1096saka) “ ông xây một antargrha có dùng gỗ đàn hương nặng 2 bhara 9 tul; bạc dùng để trang trí antargrha này nặng 1096 thil và vàng dùng để dát đỉnh antargrha nặng 26 thil. Một Kranăn được xây dựng ..bốn Naga vàng trang trí cho Kranăn
Hiện vật mũ miện Champa
nặng 30 thil vàng, 17thil bạc. Một tangau bạc 495 thil với một viên đá mặt trời trên đỉnh chóp…”- Năm 1174(năm 1098 saka) “ ông cúng một Sanrau vàng nặng 17 thil, một bình vàng nặng 24 thei với hợp kim bạc 26 thei, một ấm vàng nặng 8 thei, một bát vàng nặng 2 thil, một srumvil vàng nặng 45 thei với hợp kim bạc nặng 99 thil…một Nagapatta bịt vàng”
- Năm 1173 ( năm 1097 saka) “ cúng một tralay vàng nặng 294thei, một hluk vàng 100 thei.” - Năm 1146 ( năm 1070 saka) “ cúng những con voi lớn, tôi tớ nam và nữ”-  Năm 1148 ( năm 1072 saka) “ đã trang trí đền ( Prasada) Srisanabhađrêxvara với 10 bhara 3 tul 5kar 17 thil bạc; đã dùng 82 thei vàng để dát phủ mái đền”
Bia số XXV nói về đức vua Sri Jaya Paramêxvaravácđêva sau chiến tranh “ ngài khôi phục toàn bộ các Linga ở miền Nam …các Linga ở miền Bắc như ở Srisanabhađrễxvara. Ngài cúng một Kosa bằng bạc có bộ mặt vàng và một Kosa cho Bhrgu với mọi thứ đồ dùng bằng vàng và bằng bạc. Tổng cộng 100 thil vàng ” vào năm 1232 ( năm 1156 saka).
Trang trí điểm góc tháp
Văn bia còn ghi lại một người khác ( quan đại thần ?) năm 1228 ( năm 1152 saka) dâng “cúng  thần Srisanađrêxvara: 1 con voi cái; 1 Klong vàng nặng 3 thil;1…bạc nặng 20 thil;1 Pralong bạc nặng 20 thil;1 vrah omkara vàng nặng 1 thil, 1 viên ngọc…Ông cúng … 1thil vàng, những chân .. 2 thil; 1Pranin… 2 thil vàng; 2 bình bằng đồng; 1 vò đất nung… một người Khmer, một đàn ông, một phụ nữ… ” vv…
Như vậy tài liệu văn bia cho biết chỉ sau thế kỷ X, việc dâng cúng tài sản vào Mỹ Sơn được tiến hành rầm rộ với nhiều vị vua, nhưng về lịch sử đây là thời kỳ người Chăm đã chuyển đô về Vijaya ( Bình Định), mặc dù nơi đây là thành địa nhưng các công trình kiến trúc tôn giáo được xây dựng rầm rộ tại vùng đất kinh đô mới và các vùng phía nam. Các kiến trúc Bình Lâm, Bánh Ít ( Bình Định), tháp Nhạn( Phú Yên ) Ponaga ( Khánh Hòa) được xây dựng tôn tạo trong thời kỳ này hình thành nên một phong cách kiến trúc mới- phong cách kiến trúc Bình Định. Tại thánh địa Mỹ Sơn, nơi vẫn được coi là trung tâm tôn giáo dân tộc, các vị vua thời kỳ này cũng quan tâm tu bổ. Các nhóm tháp H; G ; K; B1 được xuất hiện trong thời kỳ này  bổ xung vào  quần thể kiến trúc ở Mỹ Sơn. Thực tế hiện nay, những
Chóp tháp góc
công trình kiến trúc ở Mỹ Sơn đa phần đều được xây dựng vào thế kỷ IX – X, thuộc thời kỳ các triều đại vua định đô tại Đồng Dương. Vương triều Inđrapura định đô ở đây  khi vua Vikrautavarman III trị vì và kéo dài đến đời vua Phê Mi Thuê ( 972 - ?). Thời kỳ này ngoài việc xây dựng tu bổ khu di tích Đồng  Dương với khoảng trên 70 kiến trúc được dựng xây, thì tại Mỹ Sơn nhiều công trình kiến trúc có quy mô lớn, to đẹp được xây dựng. Các tháp Mỹ Sơn A1, A10; B3; B4, B5, B6, B7; C1, C2, C3; D1, D2 vv…được xây dựng hàng loạt dưới thời kỳ vương triều Inđrapura. Với gần hai thế kỷ tồn tại, vương triều Inđrapura nổi bật lên hai thời kỳ: thế kỷ IX, dưới sự trị vì của vua Vikrautavarman III nhiều công trình kiến trúc được dựng xây hình thành nên phong cách kiến trúc Đồng Dương  trong lịch sử kiến trúc tháp Chămpa và thế kỷ X, với  6 vị vua trị vì đã xây dựng
Kiến trúc nhóm K- Mỹ Sơn
tôn tạo nên bộ mặt Mỹ Sơn trong lịch sử, hình thành nên phong cách kiến trúc Mỹ Sơn A1- đỉnh cao trong nghệ thuật kiến trúc Champa. Từ hai nguồn tài liệu trên cho thấy hai vương triều để lại dấu ấn đậm nhất ở Mỹ Sơn là vương triều Đồng Dương về các kiến trúc và vương triều Vijaya về các vật dâng tặng, trong đó vua Sri Jaya Inđravácmađêva là người dâng cúng nhiều tặng vật có giá trị nhất lên các vị thần. Nếu các vật dâng tặng, chúng ta chỉ biết đến qua tài liệu văn bia, thì các công trình kiến trúc để lại khá rõ ràng ghi nhận những đóng góp tiêu biểu của vương triều Inđrapura cho trung tâm tôn giáo quan trọng này.
28.TẠI SAO GỌI MỸ SƠN LÀ THUNG LŨNG CỦA THẦN LINH
        Cho đến hôm nay vùng đất Mỹ Sơn vẫn thấm đẫm những câu chuyện của thần linh, những câu chuyện mà theo năm tháng ngày càng được bồi đắp như một màn sương dần che phủ, tạo nên sự huyền ảo và bình yên cho khu di tích này. Chuyện kể rằng ngày xưa khi đến khai phá vùng đất này, người dân ở đây chứng kiến những đêm trăng mờ tỏ hay những đêm tối trời âm u, từ thung lũng Mỹ Sơn những khối cầu lửa đỏ rực bay lượn trên các đền tháp, vút xa đến tận đỉnh hòn Đền đầy bí ẩn, đan đi đan lại  làm sáng rực một vùng. Họ cho rằng đó là tinh khí của các vị thần linh bay đi bay lại thăm nhau quản lý vùng đất. Trong thung lũng ấy những đêm bình
Phù điêu chiến binh  Champa
yên từng đàn lợn vàng, vịt vàng trong đêm thanh vắng chạy hàng đàn trong thung lũng mà không ai bắt được, bởi đó là những báu vật thuộc  thần linh. Hay những đêm giông bão, gió gầm thét rền rĩ trong khu rừng già, hú gào qua các đỉnh núi, như sức mạnh từ các vị thần tỏa ra chứng tỏ sự oai linh của mình. Những ngày bình yên, từng dải mây bay uốn lượn bao phủ đỉnh Hòn Đền, trên đó có các vị thần đã chán cuộc  rong chơi quay lại ngôi nhà cũ. Chính từ những câu chuyện tưởng như hoang đường đó đã thêu dệt nên phần hồn của khu di tích góp cho sự bình yên của vùng đất này qua những năm tháng biến động của lịch sử. Chỉ có tự nhiên là vô tình, nắng, mưa, gió bão can thiệp dần làm hư hại các kiến trúc ở đây. Những
Một góc Mỹ Sơn
câu truyện đó còn duy trì cho đến mãi sau này dần đi vào tiềm thức của các người dân thế hệ tiếp nối. Chuyện ngày nay, khi Mỹ Sơn còn bị cây rừng che phủ, chiến tranh tàn phá nhiều kẻ táo gan đã tìm đến đây cậy phá hay lấy đi những bức tượng đá  mang đi bán mong kiếm lợi cho bản thân, rồi sau hứng chịu không biết bao nhiêu kiếp họa,lại quay đầu về đây cúi xin thần linh tha tội. Hay chuyện một thương nhân sau những làm ăn thất bát thành kính đến đây cầu xin  thần rủ lòng thương che chở làm ăn rồi từ đó gặp biết bao may mắn bởi được thần Phúc Lộc ( Kubera) ban cho. Không quên ơn xưa họ trở về thành kính tạ ơn. Những lời đồn đại xưa và nay hòa quyện vào nhau dần đi vào huyền thoại tạo nên niềm sùng kính thiêng liêng và họ cho rằng mỗi viên gạch, hòn đá, gốc cây ở đây đều thuộc về thần, như lời nguyền thiêng liêng ghi tạc trên đá. Từ đó người ta gọi Mỹ Sơn là thung lũng của thần linh.Mỹ Sơn – Thung lũng của thần linh đó là một điều khẳng định. Nguồn tư liệu trình bày trên cho biết vùng đất này là vùng đất dành riêng cho thần linh, vùng đất thiêng, nơi ngự trị của thần linh, do thần linh quản lý đã được các vương triều Champa sớm khẳng định. Đó là vùng đất giới hạn được bao quanh bởi các dãy núi, nơi đó có những biểu tượng thiêng,  tạo nên không gian thiêng, được người dân tôn sùng bảo vệ. Khi tiếp xúc vùng đất này, từ vua quan đến thứ dân đều phải tuân thủ theo giáo lý của thần linh quy định như văn bia đã ghi như một pháp lệnh “Thu hoạch trên khuôn viên lãnh địa này thì phải nộp 1/10 cho thần thánh”. Những quy định này
Linga – Yony nhóm tháp F
cho biết ngoài thần linh không ai được vi phạm đến vùng đất, và cho đến nay hơn 100 năm nghiên cứu Mỹ Sơn chưa bao giờ tìm thấy dấu vết cư trú của cộng đồng người sinh sống trong lòng thung lũng này. Trong không gian thiêng đó, một hệ thống thần linh được thờ tại đây, có thể nói trong Ấn Độ giáo thờ những vị thần chính nào thì vị thần đó đều được thờ tại Mỹ Sơn, hình thành nên hệ thống thần linh phong phú đa dạng, trong đó 3 vị thần tối cao được chú trọng, vượt trội lên là hình ảnh của thần Shiva. Sự hội nhập đó đã làm nên  hình ảnh thiêng liêng của thung lũng thần linh. Men theo suối Khe Thẻ dẫn vào Mỹ Sơn, trước hết là sự cảm nhận về sự u tịch bí ẩn của không gian. Trong không gian thung lũng bốn bề núi non trùng điệp khép kín, dưới tán cây rừng rậm rạp xanh thẫm, tiếng nỉ non của côn trùng, những dòng suối nhỏ uốn quanh tạo nên sự tĩnh lặng huyền bí khiến con người có cảm giác nhỏ bé  trước thiên nhiên hiển hiện đầy tôn nghiêm bí ẩn, khiến cho tâm hồn con người tĩnh lặng suy tư về cuộc sống. Dưới những bóng tháp cao vời vợi,
Mặt bằng đế tháp E4 mô phỏng hình ảnh Yony
trầm mặc, con người như nhỏ bé trước thiên nhiên, trước thần linh, đứng dưới tháp họ cầu mong sự che trở của thần linh.Trong không gian hẹp đầy hư ảo,  biểu tượng các vị thần đầy quyền năng được tôn vinh tạo nên đời sống tinh thần thấm đẫm trong mỗi con người khi họ đến đây. Sức sống tinh thần của Mỹ Sơn  về hình thức là khu kiến trúc được các triều đại Champa xây dựng thờ các vị thần Ấn Độ,  nhưng nội dung lại ẩn chứa đầy bí ẩn.Cả vùng đất chìm trong màn sương huyền thoại, thấm đẫm những huyền tích về  các vị thần hòa quyện  cùng sức mạnh siêu nhiên của tự nhiên vào nhau, tạo nên sức sống của thần linh làm mê hoặc con  người. Tiếp xúc với các đền tháp sẽ gặp những hình ảnh tôn nghiêm được khắc tạc từ bên ngoài về hình ảnh những vị tu sĩ đứng trầm tư thành kính, những vị thần được khắc tạc chứa, hội tụ nhiều tín ngưỡng của tộc người Chăm.Ngay từ khi xây dựng các vị vua Champa đã sử dụng  hình ảnh các vị thần với những quyền năng vô hạn làm nơi núp bóng của mình, tên vương hiệu các vị vua thường gắn với tên các vị thần, một hình thức đồng nhất giữa nhà vua và thần, vương quyền
 Biểu tượng Linga trên đỉnh tháp
với thần quyền làm hậu thuẫn cho mình và vương triều. Sau này  tục thờ tổ tiên ông bà,  cùng được các vị vua  Champa đưa vào thờ cúng ở Mỹ Sơn nấp dưới vỏ bọc thờ các vị thần. Từ tín ngưỡng bản địa của cư dân nông nghiệp, tục thờ âm – dương, nguồn sống sinh sôi nảy nở của mọi giống loài được coi trọng, khi hòa nhập cùng tôn giáo, yếu tố này được người dân coi trọng  khi thể hiện hình ảnh các vị thần, các công.trình kiến trúc. Vị thần được kính trọng nhất là thần Shiva mang nội dung sáng tạo được thể hiện qua biểu tượng hình thức âm dương ( Linga – Yony) được sử dụng nhiều nhất, lấn át cả những hình thức thể hiệncon người cụ thể. Thần tính dương là Linga, tính âm là Yony, hợp nhau thành bộ hoàn chỉnh tạo ra sự sống. Hình tượng này không những thể hiện trên các vật thờ linh thiêng mà ngay trong các kiến trúc tháp thờ chính mô hình kiến trúc cũng được xây dựng theo biểu tượng này. Đế tháp là hình ảnh phóng to của phần âm ( Yony), phía thân tháp thể hiện hình ảnh của Linga ( phần dương), kết hợp với nhau thành một bộ phận âm
Chóp tháp góc – Biểu tượng Linga
dương hoàn chỉnh gắn chặt với nhau. Để thể hiện rõ ý tưởng này, trên nóc đỉnh của tháp được thể hiện rõ hình ảnh của chiếc Linga ngự trị. Biểu tượng âm – dương núp dưới bóng thần linh hầu như là yếu tố chủ đạo, xuyên xuốt trên các công trình kiến trúc điêu khắc ở đây. Như vậy có thể thấy, yếu tố thần linh được thờ phụng ở Mỹ Sơn có 3 nguồn hội nhập: tín ngưỡng dân gian ( tục thờ phồn thực); tục thờ cúng tổ tiên và tôn giáo ngoại nhập. Sức hấp dẫn của tôn giáo ngoại nhập đã cuốn hút tín ngưỡng và phong tục, hình thành nên tinh thần chủ đạo ở Mỹ Sơn. Chính vì thế hình ảnh các vị thần có mặt  ở Mỹ Sơn đông đảo, nhiều loại hình, thể hiện dưới nhiều hình thức làm nên hệ thống thần linh phong phú, kéo dài theo suốt thời gian tồn tại của khu thánh địa này và cho đến ngày nay. Có thể nói Mỹ Sơn là thung lũng của thần linh.( còn tiếp)
THƠ CON CÓC:
 Bài thơ viết dở....
Quê tôi
Dòng sông nghiêng
Không muốn về với biển
Thương nhớ nguồn nên cứ chảy quanh co
Nhớ bóng núi xòe ra che chở
Nhớ khe nguồn góp nước tạo nên...
Sông cứ thế, muôn đời  vẫn thế.
 Chỉ nhớ nguồn, ngại biển bao la
Tôi cũng thế, dòng sông là thế
 Gặm nhấm nguồn, ngại biển trùng khơi....