CẢNG THANH HÀ( THỪA THIÊN - HUẾ) - QUA TƯ LIỆU KHẢO CỔ HỌC
Trong lịch sử xứ Đàng Trong nói chung và lịch sử xứ Huế nói riêng, cảng Thanh Hà được coi là một trung tâm thương mại quan trọng trong lịch sử vùng đất.
Từ lâu cảng Thanh
Hà không còn, nhưng nơi đây vẫn là mối quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong
suốt nửa thế kỷ qua. Bằng nhiều nẻo đường tiếp cận: tư liệu lịch sử, sử liệu
dân gian, bi ký, gia phả, địa danh… các nhà nghiên cứu đã cố công phục dựng lại
gương mặt một thời vang bóng của phố cảng nay đã chìm vào dĩ vãng.
Cảng Thanh Hà xưa,
ngày nay nằm trên địa phận xã Hương Vinh (huyện Hương Trà) toạ lạc trên bờ tả
ngạn sông Hương. Giới hạn không gian kéo dài từ Đền Ông đến Đền Bà khoảng 1000m,
chiều rộng khoảng 300-400m, bao gồm địa phận làng Minh Thanh và Địa Linhvới bao
nếp nhà nho nhỏ nằm ẩn mình dưới tán cây. Một vùng đất phố nhỏ, chợ không, phố
cảng xưa chỉ còn trong ký ức, với con đường trải nhựa phẳng lỳ lặng lẽ.
Nghiên cứu cảng
Thanh Hà nay, ngoài nguồn tư liệu thư tịch để lại, có lẽ chỉ còn lòng đất ẩn chứa
những dấu tích xưa mách bảo về một phố cảng một thời sầm uất.
* Để góp phần
nghiên cứu cảng Thanh Hà, từ năm 1992 Bảo tàng Tổng hợp Thừa Thiên Huế phối hợp
với Viện Khảo cổ học từng bước nghiên cứu cảng Thanh Hà qua tư liệu vật chất để
lại.
Năm 1992, cuộc đào
thám sát lần đầu cảng Thanh Hà được thực hiện. Hố thám sát có diện tích 6m2
(3 x 2m), hướng bắc - nam dọc theo bờ sông Hương, trên địa bàn thôn Minh Thanh.
Địa tầng hố đào
cho thấy:
Lớp trên dày
0,2m, đất màu vàng nhạt tơi xốp, hiện vật
lẫn nhiều gạch ngói, mảnh sứ nhiều thời đại.
Lớp dưới 0,3m, đất
màu xám đen nhạt, mềm nhưng khá chặt, đất lẫn nhiều mảnh sành sứ.
Từ 0,3m chếch về phía tây dọc hố đào xuất lộ vỉa
gạch móng chạy dài 3m, hướng bắc - nam theo sông, rộng 0,45m. Gạch có màu đỏ nhạt,
kích thước nhỏ (0,25 x 0,12 x 0,07m), các viên gạch liên kết với nhau bằng vữa
màu trắng ngà dày 1-1,5cm xếp so le nhau tạo nên khối vững chắc dày 0,65m. Vữa
gạch này được xây trên phần móng của lớp dưới, so le nhau 0,2m. Lớp móng dưới
dài 2,4m, rộng 0,4m, dày 0,4m, bẻ vuông góc về hướng tây. Gạch và kết cấu xây cất
lớp dưới như lớp móng trên. Đây là móng của hai công trình kiến trúc nhẹ xây chồng
lên nhau trong khoảng thời gian ngắn.
Dưới 1,2m là lớp đất
sinh thổ màu vàng mịn có lẫn nhiều hạt sạn nhỏ. Trong hố thám sát còn thu được
nhiều mảnh sành, sứ, gốm…
Dọc theo bờ sông,
lẫn trong các vách lở là những tầng gốm sứ ken khá dày với nhiều loại hình khác
nhau. Cùng với việc sưu tầm, chúng tôi đã thu gom nhiều hiện vật mà nhân dân địa
phương thu nhặt trong một thời gian dài, tạo nên một bộ sưu tập với 365 hiện vật,
gồm 329 đồ gốm sứ, 36 đồ sành, trong đó có 4 hiện vật có nguồn gốc sứ Nhật Bản
(1640-1690). Đồ sứ ở đây chủ yếu là sứ Trung Quốc, có niên đại sớm muộn khác
nhau (thế kỷ XVI-XVIII) với các loại hình bát, ấm, đĩa, lọ, bình hoa… men trắng
hoa lam, được trang trí đẹp.
* Năm 1993, đợt điều tra lần thứ hai được thực hiện. Ngoài cán bộ nghiên cứu của
Bảo tàng tỉnh, Viện Khảo cổ học, còn có các nhà nghiên cứu Nhật Bản. Dựa vào hố
đào tự phát của ông Nhan Đạo Thống (thôn Minh Thanh), đoàn sưu tập được 77 hiện
vật gồm: 25 hiện vật đồ sứ Trung Quốc, 47 hiện vật đồ sứ Nhật Bản và 5 hiện vật
đồ sành. Tại vách tây hố đào dài khoảng 50m, độ sâu 0,7-1,5m còn dấu vết vỉa gạch
chạy dài, móng của công trình kiến trúc xưa để lại.
* Năm 1997, để đẩy
mạnh việc nghiên cứu phố cảng Thanh Hà, đặt cơ sở cho việc toàn diện cảng trong
tương lai, Viện Khảo cổ cùng với Bảo tàng tỉnh trở lại Thanh Hà đào thám sát lần
thứ hai.
Hố thám sát thực
hiện tại vườn nhà ông Nhan Đạo Thống 1m2
(1 x 1m) và vườn nhà bà Hoàng Thị Lan 2m2 (1x2m), trong đó hố 2m2
có địa tầng ổn định.
Hố đào 2m2
chạy dọc theo hướng bắc - nam. Địa tầng văn hoá cho thấy:
- Độ sâu 0,3m lớp
trên là đất canh tác bị xáo trộn nhiều, nằu nâu nhạt, đất cứng lẫn nhiều mảnh sứ,
gốm sành, gạch của nhiều thời đại.
- Độ sâu 0,6-1,2m đất màu nâu nhạt, có chỗ đen
nhạt lẫn gạch, sành sứ. Đặc biệt dưới lớp sát tầng sinh thổ có một lớp dày
0,25m ken đặc mảnh sứ, sành. Dưới cùng là lớp sinh thổ màu vàng nhạt khá mềm
nghiêng dần từ tây sang đông.
Tổng số hiện vật
thu được gồm 2.280 mảnh, trong đó phân ra: đồ sành 380 mảnh, đồ sứ Trung Quốc
93 mảnh, đồ sứ Nhật 1.804 mảnh, đồ gốm sứ Việt 3 mảnh. Phân theo đại tầng, diễn
tiến hiện vật cho thấy:
- Lớp I: Tổng số
409 hiện vật gồm:
Đồ sành: 173 mảnh,
gồm đáy 20 mảnh, thân 130 mảnh, miệng 21 mảnh (gồm miệng bẻ loe, miệng thẳng và
miệng phẳng).
Đồ sứ Trung Quốc:
77 mảnh, gồm đáy 32 mảnh, thân 30 mảnh, miệng 15 mảnh. Sứ men trắng hoa lam,
men dày bóng, xương trắng mỏng mịn. Trang trí rồng, phượng, hoa lá hiện thực và
cách điệu…
Đồ sứ Nhật Bản:
156 mảnh, gồm các loại bát (đáy 73 mảnh, thân 61 mảnh. Một số hiện vật có kích
thước khá lớn: bát cao 8cm, đường kính miệng 17,5cm, đường kính đáy 7cm, chân đế
cao 0,5cm); Đĩa: 18 mảnh (đáy 10 mảnh, miệng 8 mảnh. Chú ý có 2 lòng đĩa viết
chữ “Nhật”); Cốc 4 mảnh. Sứ men trắng hoa lam, men dày màu trắng đục,
lam nhạt xương dày. Trang trí rồng phượng cách điệu, cá phun nước, hoa lá cách điệu.
- Lớp II: Tổng số
1029 hiện vật, gồm:
Đồ sành: 146 mảnh,
có miệng 30 mảnh, thân 92 mảnh, đáy 22 mảnh, nắp 2 mảnh. Sành màu nâu xám, cứng,
dày 0,5-0,7cm. Xương có nhiều hạt sạn sỏi, độ nung cao.
Sứ Trung Quốc 11
mảnh (5 mảnh miệng, 6 mảnh thân).
Sứ Nhật Bản có
907 mảnh, gồm 370 mảnh miệng, 410 mảnh thân, 92 mảnh đế cùng 35 mảnh đĩa vỡ ra.
Trong 92 mảnh đế có 1 mảnh ghi “Đại Minh”, 1 mảnh ghi “Đại Minh thành
hoá niên chế”. Một số lòng đĩa ghi chữ “Nhật”.
- Lớp III: Tổng số
có 842 hiện vật, gồm:
Đồ sành: 60 mảnh
và 1 bình còn nguyên vẹn. Bình có dáng thon cao, miệng thẳng, vai xuôi, thân
thon tròn đều, đáy rộng phẳng. Sành màu nâu xám, xương dày cứng.
Sứ Trung Quốc: 5
mảnh. Sứ mỏng, xương trắng mịn, độ nung cao. Men trắng hoa lam dày bóng, nét vẽ
gọn đẹp.
Sứ Nhật Bản: 776
mảnh, gồm bát: 248 mảnh, (miệng 164 mảnh, đáy 84 mảnh. Bát có kích thước lớn:
cao 4,5cm, đường kính miệng 9cm, đường kính đáy 3,5cm, chân đế cao 0,5cm. Có 2
mảnh đáy ghi “Đại Minh thành hoá niên chế”); đĩa: 48 mảnh (miệng 22 mảnh,
đáy 26 mảnh, có 2 lòng ghi chữ “ “Nhật”).
Ngoài ra còn có
480 mảnh thân từ các loại bát đĩa vỡ ra. Xương sứ thường dày, hơi mịn. Men trắng
hoa lam nhạt, màu trắng nhẹ, lam nhạt. Đề tài trang trí: rồng phượng cách điệu,
các loại hoa lá, hoa dây cách điệu.
Với diện tích
hàng ngàn mét vuông, các cuộc đào thám sát diện tích còn rất khiêm tốn nhưng
tài liệu thu được đã góp phần bước đầu hiểu về lòng đất phố cảng xưa.
Tài liệu cho thấy
phố cảng Thanh Hà được hình thành ban đầu trên một nền đất sét sông vững chắc.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, cho đến ngày nay dày từ 1-1,2m. Có thể
ban đầu nơi đây là một bến chợ sầm uất trong vùng, những giai đoạn sau của lịch
sử, để đáp ứng với nhu cầu phát triển của xã hội nơi đây biến thành một thương
cảng, phố xá được lập dựng. Dấu vết các công trình kiến trúc cho thấy cho thấy
chúng được xây dựng dọc theo sông. Móng được xây dựng khá kiên cố chứng tỏ quy
mô kiến trúc lớn. Riêng về vật liệu lợp bộ mái, chúng tôi chưa tìm thấy dấu vết,
có thể khi cảng Thanh Hà mất vai trò lịch
sử, phần kiến trúc trên được dời theo đến nơi tụ cư mới cùng chủ nhân của
chúng.
Điều dễ nhận thấy
qua các cuộc đào thám sát ở đây, hay trong các tầng đất lở tự nhiên là các hiện
vật đồ gốm, sành, sứ chiếm tỷ lệ khá lớn. Tính bền vững của loại hiện vật này đã
thách đố thời gian, trở thành những chứng cớ vật chất quan trọng khi nghiên cứu
khu cảng cổ này.
Đồ gốm sứ ở đây
có nguồn gốc từ nhiều nguồn khác nhau: Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, đồ sành địa
phương (Mỹ Xuyên - Phong Điền), trong đó
đồ gốm sứ Nhật Bản chiếm vai trò quan trọng.
Đồ gốm sứ Trung
Quốc có nhiều loại hình: Bát, đĩa, cốc, chén, bình, lọ…, được chế tác khá tinh
mỹ: nguyên liệu tốt, kỹ thuật cao, hình dáng đẹp, trang trí hoa văn tinh tế (rồng
phượng, hoa lá hiện thực, cách điệu). Đồ sứ ở đây có gốm sứ celadon, men trắng
hoa lam, tam thái… niên đại từ thế kỷ XV-XIX, đa phần có niên đại thế kỷ
XVII-XVIII.
Đồ gốm sứ Nhật Bản
chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số hiện vật tìm được, chủ yếu là bát, đĩa, cốc, bình…
men trắng hoa lam. Men trắng thường có màu trắng đục, hoa lam đậm nhạt. Trang
trí thường gặp như rồng cách điệu, phượng cách điệu, cá phun nước, hoa lá cách điệu
và hiện thực… Niên đại thuộc nửa cuối thế kỷ XVII.
Đồ sành Việt Nam
chiếm tỷ lệ không nhiều. Các hiện vật có nguồn gốc từ các trung tâm sản xuất gốm
ở địa phương như Phước Tích, Mỹ Xuyên (Phong Điền) với các loại hình bình vôi,
bình, chậu… có niên đại thế kỷ XVII-XVIII.
Với nguồn tài liệu
thu được góp phần khẳng định cảng Thanh Hà là thương cảng sầm uất, một trung
tâm thương mại lớn không những ở trong nước mà còn giao lưu với nhiều nước
trong khu vực. Thế kỷ XVII-XVIII là thời gian thịnh đạt, đỉnh cao trong hoạt động
thương mại của cảng Thanh Hà. Điều này phù hợp với những tư liệu lịch sử ghi
chép về một cảng Thanh Hà xưa dưới thời các chúa Nguyễn./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét