KINH THÀNH VIJAYA
Trước hết phải nói kinh thành ViJaya là tên gọi
theo theo bia ký của người Chăm để lại nói về một tòa thành cổ- kinh đô của người
Chăm trong lịch sử trên vùng đất châu ViJaya xưa. Kinh thành này theo các nguồn
sử liệu của Việt Nam, gọi đó là thành Phật Thệ, Chà Bàn, tên này được sử dụng trong các bộ chính sử nhà Nguyễn ( 1802
-1945) trong đó có Đại Nam nhất thống chí. Tòa thành này còn nhiều tên gọi khác
nhau: thành Cũ, thành Đồ Bàn, thành Hoàng Đế. Mỗi tên gọi đều có nguồn gốc và ẩn
chứa nội dung của một thời kỳ, nhưng nhìn chung đều chỉ một tòa thành cổ nằm
trên địa bàn xã Nhơn Hậu và một phần thị trấn Đập Đá huyện An Nhơn ( Bình Định)
ngày nay.
Tên gọi kinh thành Vijaya theo tài liệu
lịch sử dân tộc Chăm có hai nguồn gốc. Một là tòa thành cổ là trung tâm kinh tế,
chính trị quân sự của một vùng đất lãnh thổ của châu Vijaya xưa. Đây là một
trong 38 châu mà trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi viết năm 1443 cho biết “ Tổng
cộng các châu lớn nhỏ cả thảy là 38 châu, chiều dọc rộng độ 600 dặm”.Hai là
kinh thành Vijaya, kinh đô của cả tộc người Chăm trong lịch sử. Năm 998 trước nhu cầu phát triển trong điều kiện lịch
sử mới, người Chăm chuyển đô từ Inđrapura(Đồng Dương – Quảng Nam) về châu
Vijaya. Sự chuyển đô này là cả một quá trình. Sau nhiều biến động của lịch sử,
sự tranh giành quyền lực trong vương triều, nhiều thủ lĩnh ở các châu nổi lên xưng
vương, trong đó có thủ lĩnh trị vì châu Vijaya.Theo nhiều nguồn sử liệu cho biết
vị vua trị vì đầu tiên ở ViJaya là Harivarman II lên ngôi năm 989, những người
Chăm “ ...kéo người đó về ViJaya, họ công nhận người ấy làm vua”. Vị vua này có
lẽ định đô tại thành Tra ( xã Nhơn Lộc) hiện nay. Từ Vijaya vua Harivarman
II tiến tới quản lý toàn bộ lãnh thổ Chămpa
và vẫn duy trì kinh đô ở Inđrapura. Có thể coi vùng đất ViJaya là vùng đất cơ bản
của vương triều này để đến khi con ông lên nối ngôi năm 999, mới chính thức từ
bỏ Indrapura và năm 1000 kéo quân về ViJaya thì vai trò kinh đô của
vùng đất được xác lập vững vàng.Về địa lý đây là vùng đất trung tâm của dải đất
miền Trung do người Chăm quản lý kéo dài từ Quảng Bình đến Bình Thuận. Nơi đây đồng
ruộng rộng rãi, màu mỡ, sản vật phong phú, dựa lưng vào vùng cao nguyên giàu
có, nhìn ra biển rộng với hải cảng Thi Nại thuận giao thương, hội tụ đủ điều kiện
để phát triển, tạo nên một thời kỳ mới của tộc người Chăm. Vị vua mới lên ngôi
lấy tên hiệu là Yang.Po ku ViJaya Sri mở đầu cho vương triều mới –Vương triều
ViJaya- kinh đô là Vijaya. Vương triều
ViJaya mở đầu vào cuối thế kỷ X( 1000),kết thúc vào cuối thế kỷ XV (1471) với
nhiều triều đại, nhiều khúc quanh, nhiều bước thăng trầm khác nhau nhưng đã để
lại nhiều dấu ấn huy hoàng trong lịch sử Champa, trong đó văn hoá thời kỳ
ViJaya phát triển rực rỡ. Như vậy, có thể thấy khi mới chuyển đô về đây vương
triều đã có sẵn một đô thành của của châu Vijaya( Thành Tra- Nhơn Lộc).Tòa
thành này được sử dụng, trong nhiều thế kỷ, có thể sau thế kỷ XIII, khi người
Chăm giành lại được quyền độc lập từ sự
thống trị của đế quốc Khmer, thì người Chăm chuyển đô về vị trí mới, xây dựng một
kinh đô mới là : thành Chà Bàn, hay Đồ Bàn trên vị trí ngày nay, trong xu hướng
tiến ra biển chung của người Chăm trong lịch sử. Chính vì thế khi viết Đồ Bàn
thành ký, Nguyễn Văn Hiển đã viết “Đồ Bàn có tự lâu đời, khắc phục tự nhà Trần,
bị phá vỡ tự đời nhà Lê…” đã lược trình về thời gian tồn tại của tòa thành này.
Theo khảo tả của các sử gia cũ “ Thành Đồ Bàn là nơi vua cũ nước Chiêm ở đó, lộng
lẫy kiên cố nay dấu cũ hay còn”. Theo sách Thiên nam tứ thư lộ đồ chi thời
Lê cho biết” xã Phú Đa xưa có thành xây bằng gạch, gọi là thành Đồ Bàn. Thành
vuông mỗi bề dài một dặm. Có 4 cửa. Trong thành có điện có tháp. Điện đã bị đổ,
tháp còn lại 12 tòa gọi là tháp con gái”. Theo Đại Nam nhất thống chí “ Thành cũ
Chà Bàn ở địa phận 3 thôn: Nam Định; Bắc Thuận và Bả Canh về phía đông huyện
Tuy Viễn, xưa là quốc đô xưa của Chiêm Thành, chu vi 30 dặm trong thành có tháp
cổ, có nghê đá, voi đá đều là của người Chiêm Thành”.
Sau thế kỷ XV, phần đất này sát nhập
vào lãnh thổ dân tộc tòa thành này bị bỏ hoang; đến thế kỷ XVIII ( 1778) Nguyễn
Nhạc lãnh tụ cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn lại dựa trên dấu vết thành cũ,
tôn tạo mở rộng thêm đặt tên thành là Thành Hoàng Đế làm kinh đô của vương triều
Tây Sơn. Vậy trên cùng một địa điểm, tòa thành này hai lần giữ vị trí vai trò
kinh đô, trung tâm chính trị, kinh tế, quân sự của hai tộc người, hai triều đại
khác nhau, cách xa nhau hơn 300 năm. Bị bỏ hoang phế hơn 300 năm dãi dầu mưa nắng,
bị xã hội và tự nhiên can thiệp, sau này lại bị cải tạo, dấu vết kinh thành
Hoàng Đế phủ trùm lên, do vậy việc tìm lại dấu vết kinh thành xưa là một việc
làm khó khăn.
Trước đây khi nghiên cứu văn hóa
Champa, dựa vào dấu vết vật chất, các công trình kiến trúc, các tác phẩm nghệ
thuật điêu khắc, các nhà nghiên cứu đã cố
tách bóc để tìm lại diện mạo kinh thành Vijaya xưa. Từ tài liệu khảo sát đã dựng
nên cấu trúc thành Vijaya xưa có mặt bằng hình chữ nhật hướng đông – tây, dài
1400m, rộng 1.100m, còn dấu vết 4 cửa thành phân bố khá cân xứng. Mặt bằng tòa
thành này thoát hẳn mặt bằng của thành Hoàng Đế để lại. Nếu so sánh số đo của
thành Hoàng Đế với thành Đồ Bàn có thể thấy thành Hoàng Đế rộng gần gấp đôi
kinh đô Vijaya xưa.
Bản vẽ Thành Chà Bàn( Nguồn :
H.Parmentier 1909 –1918)
Như vậy có thể thấy, việc sử dụng
lại thành cũ Vijaya xây dựng nên thành Hoàng Đế
chỉ có tính kế thừa về địa điểm. Theo bản vẽ của H. Parmentier cho thấy
về dấu tích vật chất tháp Cánh Tiên được
xây dựng tại trung tâm
Kinh thành Vijaya xưa, bổ xung cho nguồn tư liệu là những phát hiện về giếng Chăm;
tương voi, sư tử được chôn lấp xung quanh khu tháp này gần đây khẳng định giả
thiết khoa học này của ông là đúng. Về mô hình,
với những tài liệu phát hiện có thể chấp nhận thành Đồ Bàn được xây dựng
sau thế kỷ XIII, được quy hoạch theo mô hình ảnh hưởng của Khmer là có cơ sở,
nhưng có thể là hình vuông mà tháp Cánh Tiên là trung tâm. Nếu lấy tháp Cánh
Tiên làm trung tâm thì những tác phẩm nghệ thuật Champa hiện còn như tượng voi,
tượng sư tử đều không xa , quần tụ quanh tháp
Bản vẽ thành
Hoàng Đế -2006
Bảng so sánh
kích thước
Kích thước
|
Dài(m)
|
Rộng(m)
|
Ghi chú
|
Thành Vijaya (Đồ Bàn )
|
1.400
|
1.100
|
H. Parmentier
|
Thành Hoàng Đế
|
2230- 2353
|
1627- 1630
|
Số đo năm 2006
|
|
|
|
|
Hệ thống tường thành Hoàng Đế hiện nay do chưa có điều kiện
cắt tường thành, để làm rõ cấu trúc; nhưng qua dấu vết đoạn tường thành phía
nam cho thấy ruột tường xây bằng đá ong, giữa các lớp đá ong phát hiện thấy kè
ngói mũi lá có tráng men. Với vật liệu đá ong trong kiến trúc Champa chỉ xuất
hiện sau khi có mặt của người Khmer, cùng với ngói mũi lá của người Chăm được sản
xuất tại các trung tâm gốm cổ như Gò Sành, Gò Cây Me, Trường Cửu, cho biết khả
năng đoạn tường này được xây dựng từ thời Champa là có cơ sở. Đúng như sử liệu
Việt Nam sau này ghi: thành xây bằng gạch. Từ tường thành xây đá ong ban đầu,
sau này được Nguyễn Nhạc tận dụng cho bồi đắp đất lên thành tường thành Hoàng Đế
ngày nay. Dấu vết những đọan tường thành hiện nay, chủ yếu là diện mạo
của thành Hoàng Đế xưa, mà cho đến nay chúng ta chưa có tài liệu và hiểu về tường
thành Vijaya.
Hai tượng Voi
Gần
đây trong chương trình nghiên cứu thành
Hoàng Đế của Sở Văn hóa và thông tin tỉnh Bình Định, cuộc khai quật khảo cổ học
tại nền cung cũ, nền hậu cung đã cho thấy một lớp văn hóa thuộc kinh thành
Vijaya cũ. Nằm sâu dưới lòng đất đỏ dày 0,35m là một tầng văn hóa đất màu đen
dày từ 0,45m đến 0,6m. Đây chính là tầng văn hóa của Vijaya xưa. Các hiện vật tìm
được tại độ sâu này là các mảnh bát, đĩa, ngói, vật liệu trang trí kiến trúc
liên quan của người Chăm sản xuất và có
liên quan đến kinh thành Vijaya . Do việc tôn tạo thành Hoàng Đế, lớp đất đỏ
tôn nền lấp phía trên để lại tầng văn hóa ở đây khá ổn định
ngãi, vËt liÖu trang trÝ kiÕn tróc
liªn quan cña ngêi Ch¨m s¶n xuÊt vµ cã
liªn quan ®Õn kinh thµnh Vijaya . Do viÖc t«n t¹o thµnh Hoµng §Õ, líp ®Êt ®á
t«n nÒn lÊp phÝa trªn ®Ó l¹i tÇng v¨n hãa ë ®©y kh¸ æn ®Þnh
Gạch và gốm trang trí Chămpa trong hố
khai quật
Tấ cả những tài liệu hiện còn trên mặt
đất và tìm được trong nhiều năm gần đây
trên nhiều chất liệu đá, gốm đều cho thấy chúng có cùng niên đại vào thế
kỷ XIII – XV. Như vậy niên đại kinh thành Vijaya ( Đồ Bàn) tồn tại từ thế kỷ
XIII – XV là hợp lý. Điều này khác hẳn với các hiện vật phát hiện tại thành Tra
có niên đại vào thế kỷ XII. Bổ xung cho nhận định trên là những phát hiện tại
gò Tháp Mẫm, gò Thập Tháp là những tác phẩm điêu khắc đá gồm đủ các loại hình đều
có niên đại vào thế kỷ XIII – XIV.
Điêu khắc phát hiện tại thành Tra
Nguồn tư liệu vật chất để lại trên
vùng đất An Nhơn ngày nay, đất trọng yếu của châu Vijaya xưa, hiện còn hai tòa
thành đều có quy mô lớn, liên quan đến hai tòa thành là hệ thống di tích, di vật
được tìm thấy . Hệ thống hai nguồn tư liệu này cho biết có hai giai đoạn khác
nhau khi người Chăm định đô trên vùng đất này. Mặt bằng cấu trúc thành Tra được
xây dựng theo truyền thống kỹ thuật xây thành cổ Champa, các hiện vật có niên đại
sớm hơn thành Đồ Bàn. Đây chính là vùng đất Kinh đô Vijaya gai đoạn đầu cuối thế
kỷ X- XII. Mặt bằng thành Đồ Bàn, do ảnh hưởng của văn hóa Khmer có thể có mô hình hình vuông đó là kinh đô Vijaya thế kỷ XIII – XV. Sự chuyển dịch
kinh đô này do yếu tố lịch sử chi phối, người Chăm bị sự xâm chiếm của người
Khmer mất quyền độc lập tử chủ.Thời gian tồn tại của kinh thành Vijaya trong lịch
sử Champa kéo dài gần 500 năm( 1000 – 1471) với hai kinh đô của hai giai đoạn lịch
sử khác nhau, thông qua tài liệu vật chất đã nói lên hai giai đoạn phát triển của
văn hóa Champa trên đất Bình Định để hình thành nên nền văn hóa Champa phát triển
rực rỡ.
Thành Đồ Bàn- kinh thành Vijaya giai đoạn
sau, sau hơn 300 năm bị lãng quên, sau này kinh thành Hoàng Đế được xây dựng phủ
trùm lên, quy mô lớn hơn, dấu vết kinh thành Vijaya bị mờ dần, ẩn chìm trong
lòng đất, mà cho đến hôm nay chúng ta chỉ được thấy những mảnh vỡ từ một kinh
thành hoa lệ xưa kia để lại. Để tìm hiểu
rõ hơn về một cố đô cổ thời Champa thế kỷ
XIII – XV của người Chăm, trước hết cần phải hiểu về quy hoạch một kinh đô của
người Chăm lấy tháp Cánh Tiên làm trung tâm tòa thành, từ đó mở rộng ra các khu
cư trú, hoàng cung, xu hướng này theo truyền thống của người Chăm là gần sông nước,
hướng ra biển. Dấu tích các khu di tích gò Thập Tháp, gò Tháp Mẫm tìm được đã phần nào phản ánh ý thức này. Nhưng
muốn hiểu sâu hơn, toàn diện hơn, cần có
nhiều cuộc khai quật khảo cổ học nơi đây để làm rõ. Hiểu về một vùng đất kinh đô,
một nền văn hóa, đại diện là một tòa thành kinh đô kéo dài hơn hai thế kỷ của
người Chăm trong lịch sử, đó là cả một quá trình, đây chỉ là đôi điều cảm nhận khoa học, mong muốn được gợi bày, chia xẻ với
những người nặng lòng tình yêu với miền đất./.