Ch¬ng III
GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA cña di tÝch c¸t tiªn
Phát hiện
về di tích Cát Tiên trong những thập niên cuối của thế kỷ XX được coi là những
phát hiện quan trọng của ngành Khảo cổ học Việt Nam. Những ẩn chứa trong lòng đất
với những công trình kiến trúc quy mô to lớn, cùng sự phong phú của hiện vật
thu được là những bằng chứng vật chất
quan trọng góp phần tìm hiểu lịch sử, văn hoá vùng đất phương Nam mà nhiều thế
hệ các nhà khoa học đang gắng công tìm kiếm. Gần 100 năm nghiên cứu các nền văn
hoá trên dải đất Việt Nam, dấu chân các nhà khoa học thực dân đã đặt chân đến đây,
nhưng họ không hề biết rằng, nơi đây trong lòng đất ẩn chứa dấu tích huy hoàng
của một nền văn minh đã tắt. Sự hiểm trở của địa hình tự nhiên, sự rậm rạp của
vùng rừng á nhiệt đới, sự kỳ thị về cuộc sống lạc hậu của các tộc người cư dân
cư trú trên vùng đất đã hạn chế tầm nhìn của họ. H. Maitre từng lội suối băng rừng tìm kiếm khắp vùng rừng
núi Tây Nguyên đại ngàn để đi đến các di tích Chăm trên đất Cao nguyên, len lỏi
qua những cánh rừng rậm rạp, lại qua các buôn làng nam Tây Nguyên kiếm tìm các
di tích của người dân bản địa. J Boulbet
mạo hiểm theo dọc sông Đồng Nai đến các buôn làng người Mạ, Kơho, Chu ru
vv…nhưng cũng không biết rằng nơi đây có một quần thể di tích còn tồn tại từ ngàn xưa dưới tán rừng cây rậm rạp. L.
Mallere dày công khảo sát , khai quật Khảo
cổ học khắp vùng đồng bằng sông Cửu Long, kiếm tìm những gì còn lại của nền văn
hoá Óc Eo đã tắt, nhưng cũng chưa hề biết đến một quần thể di tích trên vùng đất
thượng nguồn sông Đồng Nai (1).Chính vì thế, sự phát hiện của các nhà Khảo cổ học
Việt Nam tạo nên sự quan tâm đặc biệt của
các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Theo giáo sư YAOYAGI( Chủ tịch Hội khảo
cổ học Đông Nam Á của Nhật Bản) khi thăm
khu di tích Cát Tiên cho rằng: ông có ấn tượng mạnh khi đi thăm khu di tích Cát
Tiên. Những loại hình di tích này ở Đông Nam
Á vào thời điểm hiện nay đang gây sự chú ý đối với giới khảo cổ học thế
giới. Theo ông quần thể di tích Cát Tiên vô cùng quan trọng, có khả năng so
sánh với các di tích nổi tiếng ở Inđônêxia(2). Sau hai mươi năm được biết đến,
mặc dù cần tiếp tục nghiên cứu tìm hiểu sâu hơn, toàn diện hơn, nhưng những hiểu
biết ban đầu đã khẳng định giá trị lịch sử văn hoá vô giá của di tích này.
1. Không gian văn hoá
Nằm trên vùng địa
hình hiểm trở, tưởng chừng như di tích Cát Tiên được xây dựng trên vùng đất
không gian khép kín. Những di tích ở đây được xây dựng rải rác trên một không
gian rộng trải dài trên
(1)
Tham khảo thêm:
- H.
Maitre: Les Jungle Moi. Paris 1912
- J.
Boulbét: Kỹ thuật xứ Mạ.- Tài liệu dẫn.
-
L.Mallere: Khảo cổ học vùng đồng bằng châu thổ
sông Cửu Long- Bản dịch tư liệu Viện KCH 1.Không gian văn hoá
(2)Thảo
luận về di tích Cát Tiên tại Bảo tàng tỉnh Lâm Đồng –1999.
15km dọc
ven sông Đồng Nai với những trung tâm lớn trên địa bàn Quảng Ngãi, Đức Phổ (
Cát Tiên). Những vùng lân cận như Đạ Hoai(Lâm Đồng); Tân Phú ( Đồng Nai) cũng
xuất hiện những di tích có cùng tính chất. Những di tích này được xây dựng trên
các ngọn đồi thấp nổi lên trong các bồn địa ven thượng nguồn sông Đồng Nai Có thể thấy di tích được phân bố trên không
gian khá rộng, không chỉ ở địa bàn Cát
Tiên mà còn rộng hơn cả một vùng đất ven sông Đồng Nai. Những di tích này gắn
chặt với sông Đồng Nai và các vùng đất xung quanh. Có thể nói, những di tích
vùng đất này là sản phẩm văn hoá của sông Đồng Nai tạo dựng trong lịch sử. Nằm
trên địa bàn nam Cao nguyên, nơi chuyển tiếp nối liền với vùng đất Đông Nam Bộ
trù phú giàu có. Có thể thấy địa hình vùng Cát Tiên gắn bó chặt chẽ với vùng đất Đông Nam Bộ mà sông Đồng Nai là nhịp cầu nối. Sông Đồng
Nai là một dòng sông lớn ở vùng đất phía nam có chiều dài 586km, diện tích lưu
vực 36.000km2 với hệ thống sông suối phụ lưu chằng chịt, con đường
giao thông thuỷ quan trọng nối vùng đất cao nguyên giàu có với hệ thống đồng bằng hạ lưu ven biển giàu có
trù phú, con đẻ của dòng sông và là cửa ngõ của vùng đất vươn ra biển khơi. Bắt
nguồn từ phía bắc dãy núi Lang Biang, từ trăm con suối nhỏ hợp lưu, dòng sông uốn
mình chảy theo địa hình vùng đất, nhận thêm nguồn nước của hệ thống sông, suối
liên quan tạo nên dòng chảy đổ về xuôi,
cần mẫn tải phù sa đất cao nguyên hình thành
nên vùng đồng bằng châu thổ Đông
Nam Bộ giàu có, trù phú và đổ ra biển với hai cửa chính cửa Cần Giờ (sông Sài
Gòn) và cửa Soài Rạp( sông Nhà Bè). Về trắc diện dọc của sông Đồng Nai được các nhà địa chất chia làm 3 đoạn chính:
thượng lưu từ đầu nguồn cho tới Đan Kir ( Lâm Đồng) đoạn này lòng sông hẹp độ dốc
lớn, lòng sông đá lởm chởm, không thuận lợi về giao thông; trung lưu có chiều dài từ Đan Kir tới Tân Uyên, lòng
sông mở rộng, độ dốc giảm, lượng nước sông nhiều nên giao thông đi lại khá thuận
lợi; hạ lưu kéo dài từ Tân Uyên cho
Sơ đồ lưu
vực sông Đồng Nai
( Nguồn
: Thiên nhiên Việt Nam)
đến cửa
biển Cần Giờ lòng sông rất rộng và sâu, giao thông thuận lợi hình thành nên các
cảng chính vận tải trên sông và ven biển. Những di tích tìm được ở Cát Tiên và
các vùng xung quanh được xây dựng trên vùng đất đoạn trung lưu của dòng sông, nơi tiếp giáp với vùng thượng lưu. Vùng đất này
là điểm giao nhận giữa đồng bằng và cao nguyên, nơi giao thông thuỷ thuận lợi. Nơi
hội tụ nhiều yếu tố, về địa lý hiểm trở nhưng không khép kín, kinh tế nhận được
sự giàu có trù phú của cả vùng đất cao nguyên, đồng bằng mà sông Đồng Nai đưa lại.
Như vậy, có thể nói sự hình thành các di tích ở Cát Tiên gắn liền với dòng
sông. Đây là cầu nối giữa đồng bằng Đông Nam Bộ
với vùng thượng nguồn, làm cơ sở kinh tế, xã hội, văn hoá cho sự hình
thành các di tích trong lịch sử. Tính chất lịch sử và văn hoá của di tích Cát
Tiên chính là gương mặt lịch sử văn hoá của vùng đất Đông Nam Bộ.
Nói rộng ra, không gian văn hoá của di tích Cát Tiên là không gian văn hoá vùng
đất Đông Nam Bộ và nam Tây Nguyên, xa hơn là cả vùng đồng bằng hạ lưu sông Đồng
Nai(1).. Nơi con sông chảy về biển cả. Cát Tiên là nơi tập trung của cải vật chất,
tựu trung tinh hoa, tài lực của cả vùng
rộng lớn phần lãnh thổ phía nam
2.Đặc
trưng của di tích
Do đặc thù địa hình vùng đất, sự biến động
của lịch sử, sự tàn phá của tự nhiên, tất cả những gì còn lại của nền văn hoá dựng
xây trong lịch sử, cho đến nay vẫn còn là ẩn số. Với kết quả thu được qua 7 lần khai quật khảo cổ
học, dù chưa biết được trọn vẹn tổng thể các công trình di tích, di vật tại đây, nhưng với hàng loạt các di tích được
xuất
(1)Tham
khảo - Nguyễn Văn Hậu: Sông ngòi Việt Nam. NXB Giáo Dục . Hà Nội 1983.
lộ, hàng trăm hiện vật được biết đến đủ loại hình, kích cỡ phản ánh nội dung khác
nhau, có thể nêu ra những đặc trưng điển
hình của di tích này trên nhiều lĩnh vực.
a.Kiến
trúc
Cũng như các công trình kiến trúc tôn giáo ở
phía Nam được dựng xây trong lịch sử, các di tích kiến trúc ở Cát Tiên được xây
dựng với tính chất vì mục đích tôn giáo.
Kết quả khai quật khảo cổ học khẳng định những kiến trúc tôn giáo được xây theo
mô hình kiến trúc chịu ảnh hưởng của tôn giáo, văn hoá Ấn Độ về không gian cũng như mô hình kiến
trúc đó là những đền và tháp thờ. Trước
hết phải nói các kiến trúc được xây dựng, quy hoạch hoàn chỉnh theo một mô hình
riêng biệt, nằm gọn trong các thung lũng với địa hình khép kín được coi là vùng
đất thiêng, vùng đất dành riêng cho các thần linh. Trong vùng đất thiêng, các
kiến trúc được xây dựng tuân thủ nguyên tắc có trục kiến trúc chính theo hướng đông
tây. Các di tích trên địa bàn xã Quảng Ngãi cho thấy trục chính chi phối các kiến
trúc là trục hướng đông – tây. Trục chính đông tây được thể hiện qua 3 công
trình kiến trúc giữ vai trò quan trọng, linh hồn của nhóm di tích. Gò số I , số
IV và số VI được xây thẳng hàng hướng đông – tây có chức năng đặc biệt. Gò số
I dựng đền tháp chính- núi chủ - đền thờ
chủ của khu tôn giáo, chiếm vị trí cao
nhất, quy mô kiến trúc lớn nhất, hiện vật phong phú nhất; Gò số IV dựng tháp thờ,
kiến trúc xây dựng quy chỉnh, được khắc tạc trang trí đẹp, sang trọng nhất và
Gò số VI nơi có đền mộ lớn nhất, chôn
theo nhiều hiện vật có giá trị mỹ thuật nhất. Từ trục chính của vùng đất thiêng, các công trình kiến trúc
liên quan được xây dựng bổ xung tạo nên gương mặt hoàn chỉnh cho khu tôn giáo:
hồ nước, khu tháp thờ ( Gò số II, Gò số III), đền mộ ( Gò số V; Va)vv… làm nên một quần thể kiến
trúc đậm đặc, đa dạng về loại hình. Giữa
các kiến trúc được nối với nhau bằng những con đường lát gạch phẳng tạo nên một
khu tôn giáo hoàn chỉnh đầy đủ với hệ thống kiến trúc tôn giáo và các công
trình phụ trợ. Kiến trúc ở Cát Tiên khá đa dạng, được xây dựng trên nhiều địa
hình khác nhau, tuỳ theo chức năng tôn giáo
mà các kiến trúc đặt trên các vị trí khác nhau. Tháp thờ thường đặt trên
các đồi gò cao vươn hẳn trên mặt bằng thung lũng. Riêng đền tháp chính ( Gò số
I) được đặt trên đỉnh đồi cao nhất , từ đây có thể bao quát toàn bộ địa hình
thung lũng.
Mặt bằng
kiến trúc: Do các loại hình kiến trúc được xây dựng trong các thời gian khác
nhau, mục đích sử dụng khác nhau, cho nên ở đây có hai loại mặt bằng kiến trúc.
Mặt bằng hình chữ nhật chiếm chủ yếu, gồm loại hình đền thờ, tháp thờ và nhà
dài ( Mandapa); mặt bằng hình vuông gồm tháp thờ, đền mộ. Bản thân trong mỗi loại
mặt bằng tuỳ theo quy mô kiến trúc mà được xử lý bộ mái khác nhau. Mặt bằng kiến
trúc hình chữ nhật có kích thước không lớn, lòng dài 3,6m x 3,4m ( tháp IIa) hay kích thước 2,8m x
2,47m( tháp IIb), kích thước 5,4m x 4,6m ( tháp Gò số IV) là bộ mái tháp nhiều
tầng gồm nhiều lớp xây giật cấp nhô lên. Loại hình này thường được khắc tạc
trang trí đẹp, chi tiết trên một số bộ phận kiến trúc. Mặt bằng kiến trúc có
kích thước nhỏ hình vuông cũng được xử lý tương tự với bộ mái nhiều tầng giật cấp
thu nhỏ dần lên, như tháp Gò số III ( diện tích lòng 3m x3m). Những kiến trúc
có quy mô lớn, mặt bằng chữ nhật như kiến trúc
IIc; IId, VIa; VI b, hay VII a, b, c; Đức Phổ có chiều dài trên 10m, rộng
trên 6m là bộ mái gồm khung vật liệu nhẹ(
gỗ tre), lợp ngói hay tre lá. Mặt bằng
có kích thước lớn như kiến trúc Gò số I
( 6,4m x 6,4m) bộ mái có thể là khung tre gỗ, trên lợp vật liệu nhẹ. Cũng
có những kiến trúc mặt bằng hình vuông phần trên thu nhỏ dần lên, kết thúc đỉnh
đặt bộ tượng thờ Yony - Linga ( Gò số V- Va) phía trên có thể là bộ khung gỗ
tre, lợp lá. Như vậy riệng bộ mái trong các kiến trúc đã có sự xử lý khá đa dạng,
phù hợp với kiến trúc, trình độ kỹ thuật xây dựng trong mỗi thời kỳ lịch sử . Loại
hình kiến trúc: dựa vào dấu vết kiến trúc còn lại cùng những hiện vật thu được
trong lòng kiến trúc có thể thấy ở đây có bốn loại hình kiến trúc khác nhau gồm đền thờ ( Templ), tháp thờ (
Tour), nhà dài ( Mandapa) và đền mộ. Cá biệt ở đây xuất hiện duy nhất loại hình
đền - tháp thờ ( Sanctuaire) tại di tích Đức Phổ. Phân biệt các loại hình này dựa
vào mặt bằng, kết cấu hình khối kiến trúc và hiện vật thờ. Sự đa dạng về loại
hình đã nói lên vị trí vai trò quan trọng của khu di tích này.Mỗi loại hình kiến
trúc lại được xử lý một không gian hẹp riêng. Các nhóm kiến trúc như Gò số II;
IV, hay Đức Phổ; ngoài giới hạn không gian thiêng chung của di tích là toàn bộ
lãnh thổ thung lũng thì mỗi kiến trúc
này lại có không gian thiêng riêng - nơi
ngự trị của thần linh được giới hạn bởi hệ thống tường bao vây quanh xây bằng gạch
vững trãi, trên có mái lợp ngói tăng độ bền vững. Vật liệu tham gia tạo nên
hình dáng kiến trúc gồm 3 loại: đá, gạch và ngói, trong đó gạch là vật liệu xây
dựng chủ yếu trong tạo nên hình hài mỗi
kiến trúc. Gạch ở Cát Tiên có nhiều loại
hình, nhiều kích cỡ. Gạch chế tác hình khối hộp chữ nhật, đúc vuông vức, kích
thước trung bình dài 22cm - 38cm, rộng 12cm - 18cm, dày 7cm -9cm. Loại có kích
thước nhỏ dài 10cm - 12cm, rộng 12 cm -14cm, dày 5cm - 7cm. Cá biệt có loại kích
thước rất lớn dài 0m89m, rộng 0,24m dày 0,24m. Gạch ở Cát Tiên cho đến nay mới được
phân tích 02 mẫu tại các kiến trúc Gò số I và IIa, nhưng có thể thấy những đặc trưng cơ bản sau:
nguyên liệu chế tác gạch là đất sét được trộn lẫn tro trấu, tỷ lệ này khá lớn,
tạo cho gạch có độ xốp, độ hút ẩm cao( 24,4%). Độ nung gạch khá cao, độ cứng và
cường độ chịu lực nén cao ( 74,1 daN/ cm2). Gạch có độ bền tốt, đảm bảo cho sự
bền vững của công trình kiến trúc, cấu trúc xương gạch mịn dễ đục chạm trang
trí. Vật liệu nung gạch sử dụng nguồn nguyên liệu gỗ tre có sẵn tại địa bàn, chất
liệu tre gỗ cung cấp nhiệt lượng cao.Với khối lượng gạch sử dụng lớn, đòi hỏi
nguồn nguyên liệu đốt nhiều. Những cánh rừng ở đây cung cấp nguồn nguyên liệu
khá dồi dào, đảm bảo cho nhu cầu sản xuất. Nguyên liệu chế tác gạch chủ yếu là đất
sét, nguồn nguyên liệu ở đây khá dồi dào. Theo tài liệu địa chất cho biết nguồn
nguyên liệu đất sét ở đây có nhiều mỏ trữ lượng lớn, nằm dọc theo sông Đồng
Nai. Sét có màu xám, xám xanh, trắng phớt vàng, vàng nhạt, có nơi sét có màu xám đen thuộc nhóm sét có nguồn gốc
Bentonít. Khi ướt sét rất mịn, dẻo dính nhờn tay.Qua phân tích cho thấy hàm lượng
các chất trong sét như sau:
Sio2
|
Al2 O3
|
Fe2O3
|
CaO
|
MgO
|
Na2O
|
52-58
%
|
21 -
27 %
|
2- 6
%
|
0,2-
1,3%
|
1,9-
4,6%
|
0,1-1,6%
|
Hàm lượng
các chất trong sét Bentinít không chênh
lệch nhiều so với hàm lượng các chất đã được phân tích trong gạch xây dựng tại
các di tích ở Cát Tiên.(1) Điều này có thể khẳng định gạch xây dựng Cát Tiên là
vật liệu được chế tác tại chỗ, hoặc chế tác dọc theo sông Đồng Nai rồi vận chuyển
về đây xây dựng. Để tạo ra số lượng gạch khổng lồ sử dụng
xây số lượng lớn di tích với nhiều
kích cỡ gạch khác nhau, chất lượng khá ổn định,
những người chế tạo phải làm chủ được kỹ thuật chế tác và kỹ thuật nung để tạo
ra sảm phẩm có chất lượng đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi trong xây dựng.Đá là vật
liệu xây dựng ít được sử dụng trong các
kiến trúc ở Cát Tiên, đá được sử dụng chủ yếu trên các thành phần được coi là
chịu lực, hoặc có giá trị trang trí
như bậc
cửa, thanh ốp cửa, mi cửa, lát nền tháp.
Đá ở đây chủ yếu có màu xám đen nhạt, độ cứng khá cao. Đây là nguồn nguyên liệu
khá
hiếm
trên địa bàn Lâm Đồng, nhưng lại phong
phú trên địa bàn lân cận, vùng trung lưu sông Đồng Nai. Loại đá này hiện nay vẫn
thường gặp trên vùng núi dọc theo sông Đồng Nai với trữ lượng lớn. Những vật liệu đá có thể được
khai thác, chế tác thành khối rồi vận chuyển ngược dòng Đồng Nai lên tham gia
xây dựng di tích. Khi tham gia vào thành phần kiến trúc, đá được đục đẽo trang
trí trực tiếp, tạo nên
(1)Tham
khảo thêm - Song Kim:Vài nét về khoáng sản Lâm Đồng. T/C Thông tin khoa học công nghệ Lâm Đồng số 3 –
1993
những
thành phần kiến trúc với những hoạ tiết trang trí có giá trị như tác phẩm nghệ
thuật.Ngói là loại vật liệu thường được sử dụng lợp bộ mái kiến trúc. Số lượng
ngói tìm được ở đây không nhiều, có 2 loại chính, loại có thân cắt ngang hình
cánh chim và loại thân cắt ngang có hình uốn cong lòng mo, xương ngói dày mịn,
kích thước lớn. Ngói được chế tác từ đất sét, độ nung khá cao, cứng. Ngói ở đây
có lẽ được sử dụng hạn chế, dùng lợp mái
đền thờ như trong công trình kiến trúc Gò IId,
ngoài ra còn được sử dụng lợp tường bao kiến trúc.
- Kỹ
thuật xây dựng:
Trước hết
phải nói các công trình kiến trúc ở đây được xây bằng những viên gạch đã nung sẵn
hoàn chỉnh. Kiến trúc ở Cát Tiên cơ bản được xây bằng gạch, quy mô lớn, sử dụng
số lượng nhiều, tạo nên các bộ phận trong kiến trúc khá đa dạng: đế, bậc,thân,
cột cửa, trụ áp tường… cho nên đòi hỏi kỹ
thuật xây dựng phải có trình độ cao. Các viên gạch gắn kết nhau thành khối tạo nên công trình kiến
trúc không những đồ sộ, vững vàng mà phải
còn có giá trị thẩm mỹ.Khối kiến trúc còn lại cho thấy gạch ở đây được xây theo
kỹ thuật mài chập khối với nhau, các viên gạch xây xếp liền khít hầu như không
có mạch chất kết dính. Gạch xây câu móc
so le nhau tạo nên khối tường dày, khá vững chắc. Phân tích mối liên kết giữa
các viên gạch với nhau có thể thấy một số công trình các viên gạch được kết
dính bằng lớp “ vữa” bột sét mỏng mịn, độ liên kết các viên gạch với nhau kém bền
vững. Sự bền vững của tường cơ bản dựa
theo khối và lực nén của vật liệu để tạo nên sự bền vững cho kiến trúc. Một số
tháp có khả năng được sử dụng nhựa cây làm chất kết dính, tại tháp Gò IIa cho
thấy giữa hai lớp gạch có màng nhựa mỏng màu trắng đục liên kết các viên gạch với
nhau; lòng tháp được quét một lớp nhựa màu trắng lên tường. Có lẽ do nhựa cây có độ liên kết cao hơn, nên tường
tháp IIa còn lại khá cao so với các công trình kiến trúc khác?. Tường lòng tháp
được xây phẳng, thẳng đứng, liền khít như một khối thống nhất. Bên ngoài tường
thân tháp thường được khắc tạc trang trí, hoa văn cánh sen, hoa văn thực vật,
hoa lá, hình học, hay hình tia lửa. Nhưng việc khắc tạc chỉ chú trọng trên một
số bộ phận kiến trúc. Với độ dày tường kiến trúc không dày lắm thường từ 0,8m đến 0,9m, quy mô kiến trúc lại
lớn, độ liên kết của các viên gạch không cao, cho nên các kiến trúc ở Cát Tiên
trải qua năm tháng hầu hết bị sụp đổ thành gò. Nguyên nhân của sự sụp đổ này,
ngoài các yếu tố tự nhiên hay con người can thiệp thì yếu tố kỹ thuật xây dựng
cũng đóng vai trò quyết định độ bền của
di tích. Ngoài kỹ thuật xây gạch tạo nên hình dáng các công trình kiến trúc, ở
Cát Tiên còn cho thấy kỹ thuật đổ “bê tông”
trong một số công trình xây dựng. Tường bao ở đây dày từ 1,4m - 1,6m,
bên ngoài là hai lớp gạch xây phẳng thẳng đứng, ruột tường sử dụng đá, gạch vỡ
trộn lần cát sỏi đầm lèn chặt, tạo nên phần ruột bức tường vững chắc. Nhưng bản
thân sự kết dính này cũng kém cho nên hệ thống tường bao dù được lợp ngói vẫn bị
sụp đổ. Kỹ thuật đổ “ bê tông” còn xuất hiện trong nền lòng tháp IIa nhưng ở đây
xuất hiện chất kết dính là nhựa cây nên tạo ra sự ổn định vững chắc, các viên đá,
gạch vỡ kết dính với nhau thành khối bền vững. Nếu kỹ thuật xây gạch ở đây bộc
lộ những hạn chế, thì kỹ thuật chế tác đá
sử dụng trong di tích lại xuất trình một kỹ thuật hoàn hảo. Đá ở đây có độ cứng
khá cao, được cắt gọt hoàn chỉnh tạo nên những khối đá vuông vức phù hợp với vị
trí được sử dụng trong kiến trúc. Đá lát nền cắt góc vuông vức, mặt mài phẳng
nhẵn sử dụng lát nền tạo nên nền lòng phẳng
có độ bền cao. Đá bậc cửa hình khối hộp chữ nhật cạnh vuông vức lát bậc lên xuống
chắc chắn. Hai cột đá tiện tròn đều, khắc tạc trang trí hoa văn đẹp, nét đục chạm
tinh tế, gá lắp với mi cửa bằng hệ thống mộng tiện tròn ổn định. Mi cửa trang
trí đẹp nét đục chau chuốt, đường nét uốn cong mềm mại, bố cục đăng đối, giàu
tính hiện thực. Đặc biệt hệ thống khung cửa đá lắp ghép hoàn chỉnh với mộng
hình chữ nhật chắc chắn. Những hiện vật phản ánh trình độ chế tác cao, người thợ
làm chủ được chất liệu chế tác, họ đã tạo ra những sản phẩm hoàn thiện có tính
mỹ thuật cao.Theo dấu vết còn lại cho biết ở Di tích Cát Tiên còn sử dụng các
công trình kiến trúc có bộ khung gỗ, mái lợp vật liệu nhẹ khá phổ biến, trên nền lát gạch đền tháp thờ ( Gò số I), các nhà dài Mandapa Gò số
VI, Đức Phổ; đền mộ ( Gò số V) để lại những lỗ cột tròn ăn sâu xuống nền kiến
trúc. Về chức năng đây là những lỗ chôn cột đỡ bộ khung mái kiến trúc nhưng cho
đến nay chúng ta chưa có tài liệu về kỹ thuật ghép bộ khung này, ở đây chúng
tôi chỉ ghi lại như một giả thiết công tác.
b. Hiện
vật.
Với một
bộ sưu tập thu được qua các cuộc khai quật khảo cổ học vô cùng phong phú đủ các
loại hình, chất liệu, kích cỡ khác nhau đã xuất trình một phức hệ kỹ thuật phức
tạp, đa dạng tạo tác ra chúng. Để hiểu về kỹ thuật các chất liệu, loại hình này
trước hết phải nhận ra đặc trưng chung của những hiện vật tìm được ở đây.
- Bệ thờ:
Loại hình bệ thờ ở Cát Tiên tìm được không nhiều chỉ còn ba hiện vật không đầy đủ
nhưng có thể thấy bệ thờ ở đây có hình khối đơn giản, ít chạm khắc mỹ thuật. Bệ
thờ tại đền thờ Gò số I, số V chỉ là những phiến đá kích thước khác nhau, vuông
vức ghép lại tạo thành. Kỹ thuật gá lắp này dẫn đến sự liên kết không ổn định,
kém bền vững. Với bộ Yony - Linga có kích thước lớn phía trên như Gò số I nên dễ
bị sụp đổ. Một số bệ thờ trong lòng các kiến trúc khác được xây bằng chất liệu
gạch trên đặt Yony - Linga hiện nay cũng không còn. Ba chiếc bệ thờ còn lại,
hai chiếc tại Gò số II ( tháp IIa; IIb) là bệ khối hộp hình vuông , kích thước
không lớn, gồm nhiều phiến đá được chế tác với kỹ thuật tạo từng khối riêng, gá
lắp chồng khít lên nhau. Chính giữa có lỗ mộng
thông suốt các phần. Lỗ mộng được tạo tác mang ý thức tâm linh, đưa sức
mạnh siêu nhiên từ các hiện vật tâm linh chôn trong lòng trụ giới theo lỗ đó lên tiếp sức cho biểu tượng Yony - Linga phía trên. Trên bệ là bộ ngẫu tượng
thờ Yony – Linga, linh hồn của kiến trúc thờ.
-Yony –
Linga là vật thờ biểu tượng được đặt ở vị trí cao nhất trên bệ thờ. Theo thống
kê số lượng Yony- Linga tìm được ở đây khá nhiều, chất liệu kích thước khá
nhau. Nhiều bộ Yony - Linga còn lại khá hoàn chỉnh như Gò số I; số V, nhưng đa
phần do biến động chỉ còn lại Yony hoặc Linga.
Bảng thống
kê Yony – Linga tìm được ở Cát Tiên
Loại
hình
|
Gò I
|
Gò II
|
Gò
III
|
Gò IV
|
Gò V
|
Gò VI
|
Gò
VII
|
Đức
Phổ
|
Gia
Viễn
|
Yony
|
8
|
2
|
1
|
1
|
1
|
1
|
-
|
2
|
1
|
Linga
|
6
|
-
|
-
|
1
|
1
|
5
|
2
|
1
|
Về
Yony có thể chia làm hai loại chất liệu
khác nhau. Yony chế tác từ chất liệu đá, có kích thước lớn, tạo tác đẹp, được đặt
trang trọng trong lòng đền tháp thờ. Yony chế tác từ chất liệu gạch là những
viên gạch được đục chạm mang hình dáng Yony, thường có kích thước nhỏ, tạc đẽo
sơ sài chỉ mang ý nghĩa biểu tượng. Yony này lắp với viên cuội tự nhiên có hình
trụ tròn thon dài giống như hình Linga là thành một bộ tượng thờ hoàn chỉnh. Đây
có thể là những hiện vật của các tín đồ khi hành lễ tại đây đã chế tác đưa vào
bên ngoài di tích. Yony chế tác từ chất liệu đá có khi từ một khối đá nguyên tạo thành, có khi được
lắp ghép từ hai mảnh tạo thành, điểm chung là Yony có hình vuông, vòi dẫn nước có thể ngắn hoặc vươn dài ra, giữa
có lỗ mộng đục thủng dùng để gá lắp Linga. Độ dày Yony thường mỏng khoảng 9cm -
10cm, điều đó cho thấy Yony phải được đặt trên bệ thờ bằng đá ghép hay xây gạch.
Lỗ mộng đục chính giữa lòng Yony có 3 loại , mộng hình lục giác gắn với phần giữa
thân Linga; mộng hình vuông gắn với phần chân Linga và mộng hình chữ nhật cho đến
nay chưa hiểu công năng khi gá lắp Linga vào để thành bộ đồ thờ hoàn chỉnh (?).
Đặc biệt ở Cát Tiên xuất hiện dạng Yony tạc liền khối với Linga có mộng như một
trục trụ tròn nhô lên gắn với Linga hình chóp tròn rỗng giữa úp vào tạo nên bộ đồ
thờ hoàn chỉnh. Kỹ thuật gá lắp này lần đầu tiên biết đến ở Cát Tiên cũng như ở
Việt Nam về loại hình này. Linga: là loại hình hiện vật có số lượng nhiều được
chế tác từ các chất liệu khá nhau, đặt ở vị trí khác nhau. Linga chất liệu đá
có kích thước lớn được tạo dáng hình khối trụ với ba phần riêng biệt: trụ tròn
phía trên, hình lục giác phần giữa và hình khối hộp vuông phía dưới, ba phần
này được chế tác với hình khối gọn, tỷ lệ
cân xứng tạo nên sự hài hoà, thanh thoát. Đây là biểu tượng của hình ảnh ba vị
thần chính trong Ấn Độ giáo: Sihva -
Visnu - Brahma. Trên Linga có tạc mi thiêng , trụ thiêng. Đặc biệt trên Linga
Gò số V và VI phần trụ tròn có tạc hình ảnh mặt thần Sihva khá sinh động. Cùng
với Linga - Mukha Linga là hiện vật duy nhất tìm được tại Gò số VI được chế tác
bằng chất liệu đồng.Linga chất liệu kim loại vàng sắt, đồng, bạc được chôn
trong lòng trụ giới có kích thước nhỏ, chế tác như hình ảnh thu nhỏ của các
Linga chất liệu đá đặt thờ phía trên với ba phần trụ tròn, lục giác và hình khối
vuông có tỷ lệ cân đối hài hoà. Đặc biệt ở đây có Linga đồng bọc bạc hay Linga
bằng chất liệu sắt. Với kích thước nhỏ, được chế tác tinh mỹ cho thấy kỹ thuật đúc
đạt trình độ kỹ thuật cao. Người thợ đúc nắm vững bản chất kim loại, đúc ra những
sản phẩm có trình độ kỹ thuật, mỹ thuật
theo ý muốn của mình.Linga bằng chất liệu đá quý gồm ba hiện vật. Đá chế
tác là đá thạch anh ( Crysta) màu trắng, trong suốt độ cứng cao.Những hiện
vật chất liệu này thường có kích thước nhỏ. Yony - Linga liền khối tìm được tại
Gò IIa tạc từ một khối đá màu trắng trong xuốt, tạo dáng Yony hình vuông, giữa
là Linga khối trụ tròn nhô lên thành bộ ngẫu tượng thờ hoàn chỉnh. Linga Gò số
I và số IV được chế tác hình trụ tròn thon dài, trên có tạc mi thiêng, cột
thiêng . Linga tháp thờ Gò số IV được coi là Linga bằng thạch anh lớn nhất tìm được
tại Việt Nam.(1)
Tượng
tròn ở Cát Tiên tìm được số lượng ít : 4 hiện vật, 3 tượng Ganêsa, 1 tượng Uma.
Ba tượng Ganêsa có kích thước khác nhau , đều được thể hiện trong tư thế ngồi,
nhưng cùng một phong cách thể hiện, hình
khối khá thô, các chi tiết có tính ước lệ cao, mang nặng thể hiện nội dung mà
ít chú ý đến thẩm mỹ. Tượng Uma cũng thể hiện tương tự, hình thức khắc tạc sơ sài, hình khối đơn giản,
chỉ chuyển tải về nội dung tôn giáo thể
hiện mà ít chú ý đến tính nghệ thuật.Hiện vật những lá vàng là một bộ sưu tập
quý hiếm. Không những nhiều về số lượng
và kích thước, mà đây còn là những thông điệp về nội dung tôn giáo, kỹ thuật tạo
tác Thông qua các hình ảnh, kỹ thuật thể hiện cho thấy những hình ảnh về các vị
nam thần, nữ thần, tu sĩ, những con vật linh, những vật biểu tượng của các thần.
Tập hợp lại có thể nói những lá vàng là một cuốn sách thể hiện nội dung thần
thoại, sử thi, trường ca trong văn hoá Ấn Độ
bằng hình ảnh. Kỹ thuật thể hiện gồm có 2 phương pháp; dập nổi và khắc vạch
chìm. Từ những lá vàng dát mỏng người ta sử dụng kỹ thuật dập nổi làm các hình ảnh
đó nổi bật lên, khối nổi gọn gàng, đường nét tinh tế, hình ảnh sống động (1)Tham khảo
thêm - Lê Đình Phụng: Yony - Linga ở Cát
Tiên ( Lâm Đồng). NPHMVKCH Hà Nội 1999.
, có giá
trị nghệ thuật cao hoặc từ những lá vàng mỏng người ta sử dụng dụng cụ mũi nhọn
vạch chìm lên các nét, nét vẽ tỉ mỉ chi tiết làm rõ chủ đề trang trí. Thông qua
những hình ảnh thể hiện, chủ nhân tạo tác ra chúng đã thể hiện tài hoa của mình
bằng những nét vẽ điêu luyện giàu cảm xúc, qua ngôn ngữ hình ảnh, phản ánh nhận
thức về nội dung tôn giáo thấm đậm trong tâm tư tình cảm của cộng đồng cư dân,
chủ nhân tạo tác sử dựng di tích này trong lịch sử.
- Đồ đồng
tại Cát Tiên tìm được không nhiều, cơ bản có mặt tại loại hình di tích đền mộ ( Gò số V -VII).
Nguồn gốc, vị trí các hiện vật tìm được không rõ ràng do thu hồi được từ những
người đào phá di tích. Đồ đồng mỗi loại
hình thường có một cặp: chân đèn, ống hình trụ, cốc chân cao, ly, hiện vật hình
chuông… Duy có một đĩa đồng là hiện vật đơn lẻ được biết tại Gò số V và số VII.
Hiện vật đồng thường không được trang trí, chỉ được tạo dáng phân biệt chức năng
sử dụng. Riêng chiếc đĩa đồng thu được tại gò số VII được trang trí khá đẹp với
kỹ thuật đúc nổi, đường nét thể hiện gọn, sắc sảo, đề tài khá phong phú. Đây là
những hiện vật đồ thờ sử dụng trong các kiến trúc. Theo một số nhà nghiên cứu,
với số lượng hiện vật ít, được sử dụng làm đồ thờ, laị có mặt ở nơi hiếm có
nguyên liệu đồng, kỹ thuật đúc đồng không có, nên những hiện vật này có thể có nguồn gốc từ
Kusana ( Trung Á) được nhập vào đây qua con đường giao thương buôn bán.
(1)
(1) Bùi
Chí Hoàng: Khu Di tích Cát Tiên - Tư liệu và nhận thức mới. Tư liệu Bảo tàng tổng
hợp tỉnh Lâm Đồng
Đồ gốm ở
đây khá nhiều đa phần là các mảnh gốm của nhiều loại hình vỡ ra như bình, vò ,
nồi, bát, cốc chân cao…Đặc trưng về đồ gốm ở đây, chất liệu có hai loại gốm mịn và gốm thô. Gốm
mịn xương chắc, độ dày mỏng, gốm có màu đỏ nhạt hay vàng nhạt, độ nung cao, xương
cứng, thường chế tác các loại đồ đựng có kích thước nhỏ, trên có hoa văn trang
trí, thể hiện tính mỹ thuật cao. Gốm thô
xương dày có pha bã thực vật hoặc cát, độ nung không cao lắm, xương bở
thường chế tác các loại hình có kích thước lớn, ít được trang trí. Đáng chú ý
trong đồ gốm có hai loại hình cốc chân cao và vòi ấm( hay vòi Kendi?). Cốc chân
cao có hình dáng đẹp với thân thấp miệng
loe rộng, đáy thân hơi thót vào, giữa chân và thân cốc có
trụ nối,
chân cốc cao hơi choẽ ra gần tương xứng với phần thân. Gốm thường mỏng mịn, độ
nung khá cao, vành miệng trang trí hoa văn vẽ uốn đơn giản với kỹ thuật khắc vạch.
Vòi ấm thường ngắn trên vòi có những khoang tiện tròn thường gọi chung là vòi ấm
con tiện. Trên đây là những đặc trưng cơ bản
các loại hình kiến trúc và hiện vật của
di tích
Cát Tiên. Từ những đặc trưng này, giúp chúng ta tìm về thời gian xây dựng và chủ
nhân tạo dựng ra chúng.
3.Mối
quan hệ giữa di tích Cát tiên với các nền văn hoá khu vực.
Từ địa hình, kiến trúc và các di vật
tìm được khẳng định Di tích Cát tiên là một khu di tích tôn giáo, được xây dựng
và thờ phụng theo mô hình tôn giáo Ấn Độ.
Đây là một trong những vùng văn hoá chịu ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ ở Việt Nam nói riêng và Đông Nam Á nói
chung trong lịch sử. Như vậy ngoài các di tích thuộc văn hoá Champa ở miền
trung; các di tích thuộc văn hoá Óc Eo thuộc đông và tây Nam Bộ đã biết ở nước
ta; nay chúng ta phát hiện thêm di tích Cát Tiên cũng được xây dựng và tồn tại,
cùng chịu ảnh hưởng từ văn hoá, tôn giáo Ấn Độ. Di tích Cát Tiên là của một nền
văn hoá riêng, một tộc người riêng, hay di tích Cát Tiên là một bộ phận của văn
hoá Champa hay Óc Eo trong lịch sử, đó
là một vấn đề đặt ra cần giải quyết. Kể từ khi phát hiện cho đến nay, dựa vào
di tích hiện còn, di vật tìm được, qua nghiên cứu so sánh đối chiếu, đã có nhiều
ý kiến khác nhau, nhiều cuộc tranh luận vẫn chưa ngã ngũ. Để định vị cho di
tích Cát Tiên trong nền văn hoá dân tộc, từ những đặc trưng của di tích, di vật
đã nêu hãy thử so sánh với các nền văn hoá thân thuộc liên quan cùng chịu ảnh hưởng
từ văn hoá tôn giáo Ấn Độ.
a.Văn
hoá Champa
Văn hoá Champa là một nền văn hoá lớn
trên dải đất miền trung và có ảnh hưởng rộng lên cao nguyên, nhưng chủ yếu tập
trung trên dải đất đồng bằng duyên hải ven biển. Văn hoá Champa với chủ thể
sáng tạo là người Chăm, từ nguồn gốc văn hoá bản địa với sự tiếp thu ảnh hưởng
của văn hoá, tôn giáo Ấn Độ, họ đã xây dựng nên nền văn hoá độc đáo, riêng biệt
mang đậm bản sắc tộc người. Nền văn hoá đó
tồn tại và phát triển suốt hơn nghìn năm trong lịch sử để đến cuối thế kỷ XVIII
hoà nhập vào dòng chảy văn hoá chung của dân tộc. Về không gian văn hoá Champa
có mặt từ tỉnh Quảng Bình đến bờ bắc sông Đồng Nai tỉnh Bình Thuận,và có ảnh hưởng
khá sâu sắc lên vùng nam cao nguyên, địa bàn tỉnh Lâm Đồng ngày nay. Văn hoá
Champa để lại cho nền văn hoá dân tộc nhiều di sản quý, trong đó có một hệ thống tháp thờ xây dựng dọc dải đất ven biển miền trung mà
tháp Phố Hài ( Posưna - Bình Thuận ) là
kiến trúc xa nhất về phương nam.Trên cao nguyên là các kiến trúc tháp Yang
Prong ( Đắc Lắc); Yang Mun ( Gia Lai); hay các phế tích tháp tại EaKtua ( Đắc
Nông). Đỉnh cao của nghệ thuật kiến trúc tháp Champa tựu trung tại
khu di tích Mỹ Sơn( Quảng Nam), được nhân loại công nhận là Di sản văn
hoá Thế giới ( năm 1999). Niên đại kiến trúc tháp Champacó sớm nhất vào thế kỷ
VII ( tháp Mỹ Sơn E1), niên đại tháp muộn
nhất vào thế kỷ XVII ( tháp Po Rome – Ninh Thuận).(1) Về điêu khắc văn hoá
Champa để lại hàng nghìn tác phẩm điêu khắc đá, trong đó có nhiều tác phẩm được
coi là đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc đá Đông Nam Á. Niên đại sớm nhất vào
thế kỷ VII( bệ thờ Mỹ Sơn E1 – Quảng Nam) và muộn nhất vào thế kỷ XVIII ( các tượng
Kút – Ninh Thuận) (2). Bên cạnh đó là các hiện vật chế tác từ chất liệu kim loại
quý, đồng, bạc vv.. có giá trị về nghệ thuật. Những công trình kiến trúc, hiện
vật điêu khắc, kim loại quý đều được xây dựng theo mô hình, hay thể hiện theo nội
dung văn hoá, tôn giáo Ấn Độ. Đó chính là cơ sở để so sánh đối chiếu
với các di tích , di vật tìm được tại Cát Tiên.Trước hết về địa hình không gian
vùng xây dựng, cũng như Cát
(1)
Lê Đình Phụng: Tìm hiểu lịch sử kiến trúc tháp
Champa. NXB Văn hoá & Thông tin. Hà Nội 2005
(2)
Lê Đình Phụng: Tượng Kút Champa. T/C KCH số 4- 2005
Tiên,
các công trình kiến trúc Champa được xây dựng thường lấy các dòng sông là một yếu
tố không thể thiếu trong không gian kiến trúc; đặc biệt là các dòng sông lớn giữ
vai trò quan trọng trong vùng đất. Nhóm kiến trúc quan trọng nhất của Champa cũng
chọn vùng thung lũng khép kín, lòng chảo Mỹ Sơn ( Quảng Nam) làm nơi xây dựng
trung tâm tôn giáo của dân tộc mình. Vùng đất đó được coi là không gian thiêng
theo quan niệm tôn giáo Ấn Độ. Các công trình xây dựng ở Cát Tiên cũng được xây
dựng tại địa điểm thoả mãn giáo lý tôn giáo đó. Trong không gian thiêng ấy các
kiến trúc xây dựng trên các địa điểm thiêng, giới hạn địa điểm thiêng là hệ thống
tường bao, điều này cho thấy ở Mỹ Sơn hay Cát Tiên những địa điểm kiến trúc
quan trọng đều có hệ thống tường bao vây quanh. Trong tổng thể hệ thống kiến
trúc, văn hoá Champa có nhiều loại hình, đền thờ, tháp thờ, nhà dài, tháp cổng
với các mặt bằng kiến trúc khác nhau với loại hình xuất hiện đầu tiên là các đền
thờ có mặt bằng hình chữ nhật, sau chuyển thành tháp thờ mặt bằng hình vuông, bộ
mái từ lợp vật liệu nhẹ sau chuyển dần sang kỹ thuật xây giật cấp tạo nên bộ
mái nhiều tầng. Di tích Cát tiên cũng xuất hiện đầy đủ các loại hình này. Cửa
ra vào kiến trúc trong các tháp Champa thường mở về hướng đông, nơi nhận sớm nhất
ánh sáng mặt trời, thì các kiến trúc ở Cát Tiên cũng tuân thủ theo nguyên tắc
này. Như vậy về địa điểm dựng xây, bình đồ kiến trúc, quy luật hướng kiến trúc
di tích Cát Tiên có sự tương đồng với các di tích văn hoá Champa. Cấu trúc
trong lòng tháp ở Cát Tiên cũng có nét tương đồng như cấu trúc lòng một số tháp
Champa được biết đến. Đó là những hộp nằm
chìm dưới lòng tháp trong có chứa các hiện vật liên quan đến tâm linh như tháp
Mỹ Sơn F1, G1 hay Đại Hữu , Trung Quán ( Quảng Bình); Vân Trạch Hoà ( Thừa
Thiên - Huế). Cũng như các công trình kiến
trúc Champa, gạch là vật liệu chủ yếu được sử dụng xây dựng các công trình kiến
trúc.Gạch xây dựng tại Cát Tiên và các di tích Champa với kích thước tương tự nhau, nhưng chất lượng
gạch của Champa đồng đều hơn, tốt hơn. Gạch Cát Tiên có màu sắc kém hơn, độ
nung tháp hơn, độ hút ẩm cao hơn, nên độ bền kém hơn. Kỹ thuật xây dựng giữa
các kiến trúc Champa và Cát Tiên có nét
tương đồng, đó là kỹ thuật xây mài chập khối, các viên gạch câu móc liên kết
nhau tạo nên hình hài kiến trúc nhưng kỹ thuật xây dựng ở Champa cao hơn, các
viên gạch được xây mài khít, liên kết bằng nhựa thực vật tạo ra sự bền vững,
trong khi đó các di tích ở Cát Tiên việc sử dụng nhựa làm chất kết dính hạn chế,
khối các kiến trúc kém bền vững hơn. Mặc dù sự thể hiện trên các công trình kỹ
thuật có sự tương đồng nhau tạo nên các kiến trúc trong lòng tường phẳng nhẵn,
bên ngoài xây mài chập giật cấp thu nhỏ dần lên nhưng độ dày tường tháp Cát
Tiên mỏng từ 0,8m - 0,9m, độ dày tường
tháp Champa lớn hơn từ 1,6m - 2,4m, cho nên các kiến trúc Champa được xây với kỹ
thuật cao hơn, đồ sộ hơn, chắc chắn hơn và còn nguyên vẹn đến ngày nay. Chất liệu
đá, cũng như ở Champa, vật liệu đá ít sử dụng, đá được sử dụng trên những thành
phần chịu lực chính trong kiến trúc như cột cửa, mi cửa. Đá thường được chế tác
hoàn chỉnh, trên có khắc tạc hoa văn trang trí. Tại Cát Tiên và Mỹ Sơn xuất hiện
loại cột tiện tròn hoàn chỉnh trang trí mỹ thuật đẹp ( Gò IIa- Cát Tiên) và ở Champa tháp Mỹ Sơn E1 có niên đại vào thế
kỷ VIII . Ở đây nhận thấy tính tương đồng
về loại hình, kích thước và hoa văn trang trí trên bộ phận kiến trúc cột. Mi cửa ở
Cát Tiên tại Gò IIa được khắc tạc đẹp hoàn chỉnh với đề
Cột đá
tiện tròn tại Mỹ Sơn E1
tài hoa
lá, đặc biệt là bông sen, đề tại này cũng được sử dụng trongủtang trí mi cửa
tìm được tại Trà Kiệu ( Quảng Nam), có niên đại thế kỷ X. Hình ảnh bông sen
trên hai mi cửa được thể hiện giống nhau với cuống dài, tiện khắc, cánh sen
thon dài đang toả ra, toàn bộ bông hoa nằm trong khung hoa dây uốn lượn . Bệ thờ
ở Cát Tiên ít được biết hoàn chỉnh, hai chiếc bệ thờ tìm được tại Gò IIa,
IIb là khối hộp hình vuông gồm nhiều phần gá lắp chồng khít với nhau tạo
nên. Hình khối bệ đơn giản, tạo dáng mỹ thuật khối đơn điệu.Cấu trúc bệ thờ này
không thấy sử dụng trong kỹ thuật chế tác bệ thờ Champa Trong văn hoá Champa, bệ
thờ là một loại hình được chú trọng khi chế tác được coi là linh hồn gắn chặt với
biểu tượng
Mi cửa
tại Trà Kiệu ( Quảng Nam)
thờ
Yony – Linga, nên được tạo tác đẹp, tính thẩm mỹ cao, được khắc tạc trang trí
hoàn chỉnh với nhiều đề tài thể hiện nội dung tôn giáo, sử thi sâu sắc . Kỹ thuật chạm khắc tinh tế, hình khối nuột
nà giàu cảm xúc. Nhiều bệ thờ được coi là một tác phẩm nghệ thuật có giá trị mỹ
thuật nổi tiếng trong nghệ thuật điêu khắc đá như bệ thờ Mỹ Sơn E1, Trà Kiệu , Đồng
Dương vv… Trái lại bệ thờ ở Cát Tiên thể hiện đơn giản, để trơn không trang
trí. Hai bệ thờ này tương tự như bệ thờ tại tháp Phố Hài ( Posanư - Bình Thuận
), đó là những khối hộp trơn nhẵn, trên đặt ngẫu tượng Yony – Linga thờ. Những
bệ thờ này chỉ có giá trị sử dụng mà thiếu giá trị nghệ thuật.Yony- Linga là đề
tài được thể hiện khá nhiều, có thể thấy Linga gò số I có hình dáng tương tự như
Linga tại Mỹ Sơn tháp A’ 1 có niên đại thế kỷ IX. Yony - Linga tại Đức Phổ thể
hiện tương tự như Yony - Linga tại tháp
Mỹ Sơn F1 . Điều đặc biệt là ở Cát Tiên xuất hiện hình tượng mặt thần
Sihva tạc trên Linga. Loại hình này ở Champa xuất hiện đầu tiên vào thế kỷ
IX, thể hiện qua hình tượng “búi thiêng”
sau này thể hiện qua hình dạng
Trang
trí ở Bệ thờ Mỹ Sơn E1 ( Quảng Nam)
MukhaLinga chụp lên đầu Linga. Vào thế kỷ XIV xuất hiện
mặt thần Sihva tạc trên Linga( tháp PoKLongGialai - Ninh Thuận) và sử dụng đến
thế kỷ XVII ( tháp PoRome - Ninh Thuận). Điều đó cho thấy sự khác nhau về thời điểm
xuất hiện loại hình nghệ thuật trang trí này giữa hai di tích của hai vùng đất
khác nhau.Những lá vàng trong di tích Cát Tiên lại xuất trình nét riêng của di
tích này khác hẳn hoàn toàn các di tích những lá vàng trong văn hoá Champa. Những
lá vàng trong văn hoá Champa được tìm trong trụ giới, hộp chứa trong lòng các
tháp Đại Hữu, Trung Quán ( Quảng Bình); Vân Trạch Hoà, Mỹ Khánh ( Thừa Thiên Huế).Có
thể bắt gặp nét tương đồng về đề tài thể hiện như hình ảnh con Rùa, bông sen,
nhưng cách thể hiện khác hẳn. Trong văn hoá Champa các lá vàng được thể hiện đơn
giản, có tính
Lin ga
tại Mỹ Sơn ( Quảng Nam)
ứơc lệ, tỷ lệ vàng thấp, chất lượng vàng kém hơn.
Trong khi đó các lá vàng tìm được ở Cát Tiên tỷ lệ vàng cao, chất lượng vàng tốt,
kỹ thuật chế tác cao hơn, trình độ thẩm mỹ tinh tế, như một tác phẩm nghệ thuật.
Hình ảnh các vị thần kjhắc trên các lá vàng hầu như không có , nhưng lại bắt gặp
hình ảnh tương tự thể hiện trên điêu khắc đá giống như một lá vàng tại Gò số I,
đó là hình ảnh vị thần ngồi giữa với hai người hầu quỳ hai bên. Hay chiếc mũ đội
hình tròn dẹt chóp có núm nhọn nhô lên của các vị thần khắc trên các lá vàng Gò
số IIa giống như mũ tu sĩ tạc trên chất liệu gạch tháp Mỹ Sơn A1 có niên đại thế
kỷ X. So sánh trên một số lĩnh vực về kiến trúc, đề tài điêu khắc cho thấy Di
tích Cát Tiên có nhiều nét tương đồng với văn hoá Champa. Sự tương đồng này có
nguồn gốc cùng ảnh hưởng của văn hoá,
Lá vàng
tìm được ở Champa và lá vàng tìm được ở Cát Tiên
tôn
giáo Ấn Độ, nhưng mỗi di tích lại có nét
đặc thù riêng, mang bản sắc riêng, kỹ thuật riêng của vùng đất cùng chủ nhân sản
sinh ra chúng. Điều khác biệt rõ nhất của di tích Cát Tiên với các di tích văn
hoá Champa thể hiện trên đồ gốm. Đây là hai dòng gốm hoàn toàn khác nhau về chất
liệu, hình dáng, kỹ thuật tạo tác, gốm Champa xương mịn, mỏng, hình dáng đẹp có
giá trị mỹ thuật cao. Gốm ở Cát Tiên thường thô, giá trị mỹ thuật thấp. Nhwngx
sự khác biệt đó phản ánh dù có nét tương đồng nhưng đây là hai nền văn hoá khác
nhau của hai tộc người tạo ra bản sắc riêng của mình, dù cùng chịu ảnh hưởng của
văn hoá tôn giáo Ấn Độ. Đây chính là sự độc
đáo riêng, giá trị văn hoá riêng của di tích Cát Tiên đóng góp vào nền văn hoá
dân tộc.
Mũ tu sĩ
trên tháp Mỹ Sơn A1 và điêu khắc
trên cột
đá tháp F1 – Mỹ Sơn ( Quảng Nam)
b.Văn
hoá Óc Eo.
Văn
hoá Óc Eo là một nền văn hoá lớn, mang
nét đặc thù riêng của miền đất Nam Bộ. Về không gian văn hoá Óc Eo bao phủ toàn bộ địa bàn đông và tây Nam
Bộ, trong đó tập trung đậm đặc tại vùng đất tây Nam Bộ với trung tâm là Óc Eo trên địa bàn tỉnh An Giang. Về thời
gian văn hoá Óc Eo kéo dài từ thế kỷ I đến
thế kỷ IX, thường được coi là trùng khớp
với thời gian tồn tại của vương quốc Phù Nam trên vùng lãnh thổ này. Gần một thế
kỷ từ khi phát hiện nghiên cứu cho đến nay, vấn đề thời gian tồn tại của văn
hoá Óc Eo vẫn còn nhiều nhiều ý kiến cần
thảo luận. Có ý kiến chia văn hoá Óc Eo
thành ba giai đoạn: tiền Óc Eo - Óc Eo và
hậu Óc Eo. Dù nhiều vấn đề còn để
ngỏ nhưng điều thừa nhận là từ một nền văn hoá tín ngưỡng bản địa, sau khi tiếp
thu ảnh hưởng của văn hoá tôn giáo Ấn Độ, cư dân ở đây đã xây dựng nên một nền
văn hoá phát triển rực rỡ để lại cho đến
ngày nay nhiều loại hình di tích, di vật có giá trị đặc sắc góp vào nền văn hoá chung dân tộc đa sắc màu
trong lịch sử. Cùng với các nguồn sử liệu để lại, sau hàng thập niên khai quật
khảo cổ học, nghiên cứu, diện mạo văn hoá
Óc Eo dần hiện rõ, với 89 di tích cùng hàng ngàn di vật đủ các loại
hình, chất liệu, kích cỡ, niên đại khác nhau
được biết đến là nguồn tư liệu
phong phú tin cậy, là cơ sở để so sánh với những tài liệu tìm được ở di tích
Cát Tiên. Trước hết nói về kiến trúc tháp, cho đến nay hầu hết các kiến trúc
thuộc văn hoá Óc Eo không còn, các cuộc khai quật khảo cổ học chỉ tìm thấy dấu
vết móng cùng vật liệu các công trình đã sụp đổ. Trên địa bàn đông và tây Nam Bộ
hiện nay chỉ còn 3 kiến trúc hình hài không nguyên vẹn: tháp Bình Thạnh, Chóp Mạt
( Tây Ninh); Vĩnh Hưng ( Bạc Liêu). So sánh 3 kiến trúc hiện còn với các kiến
trúc di tích Cát Tiên dễ dàng nhận thấy nét tương đồng. Vật liệu xây dựng gạch
có cùng kích thước, màu sắc, độ nung tương tự nhau. Kỹ thuật xây dựng mài chập
khối ít sử dụng chất kết dính, tường kiến trúc thường mỏng nên độ bền vững thấp
dễ bị sụp đổ. Tại di tích Bà Chúa Xứ ( Đồng Tháp), gạch có kích thước trung
bình dài 29cm - 30 cm, rộng 15cm - 18cm, dày 7cm- 10cm; di tích Gò Tháp Mười gạch
dày trung bình 32cm - 33cm; rộng 16cm -
17cm, dày 7,5cm - 9cm. Đặc biệt di tích Gò Tháp Mười để lại khung cửa đá hoàn
toàn giống khung cửa đá ở Cát Tiên có mộng ghép hình chữ nhật mà trong kết cấu
kỹ thuật ghép đá Champa hoàn toàn không hề có. Mặt bằng kiến trúc các tháp hình
chữ nhật gần vuông. Tháp Vĩnh Hưng có
kích thước lòng dài 3,9m, rộng 3,2m tương tự như mặt bằng lòng tháp Gò IIa.
Trong lòng các kiến trúc này
Tháp
Bình Thạnh và tháp Chóp Mạt ( Tây Ninh)
thường
có hộp lòng tháp và trụ giới nơi chứa các hiện vật liên quan đến nội dung tôn
giáo của kiến trúc. Về trang trí kiến trúc cho thấy phong cách thể hiện, hoạ tiết
trang trí trên mi cửa đá tháp IIa, có cùng một phong cách, đề tài, kỹ thuật thể
hiện như trang trí mi cửa khắc tạc của tháp Bình Thạnh. Như vậy có thể thấy về
kiến trúc, các di tích ở Cát Tiên có nét gần gũi, tương đồng với các kiến trúc
trong văn hoá Óc Eo của miền đất Nam Bộ,
gần gũi hơn cả là di tích ở Đông Nam Bộ. Bệ thờ
tháp IIa ở Cát Tiên được chế tác tương tự như bệ thờ tìm được tại di
tích đá Nổi. Đó là những khối hộp vuông xếp chồng khít lên nhau tạo nên bệ thờ.
Thể hiện rõ ràng hơn là bộ ngẫu tượng Yony - Linga bằng
đá thạch anh tìm được tại Thới Sơn ( An Giang) giống hệt bộ ngẫu tượng tìm được tại tháp IIa Cát Tiên.
Bệ Yony hình
Yony
– Linga ở Cát Tiên
|
Yony –
Linga trong văn hoá Óc Eo( bên phải)
( Nguồn:
Văn hoá Óc Eo – những khám phá mới)
vuông,
giữa là Linga hình trụ tròn nhô lên được chế bằng đá thạch anh trong xuốt.Yony
tìm được ở Cát Tiên có hình dáng như các
Yony tại các di tích Rộc Chanh, Gò Tháp ( Long An), đó là những Yony hình
vuông, vòi dài, thân mỏng với những lỗ đục thủng gá lắp Linga đa dạng: hình
tròn, hình vuông , hình chữ nhật…Linga là loại hình hiện vật tìm được trong văn hoá Óc Eo khá nhiều với
nhiều kích cỡ, phong cách thể hiện khác nhau. Theo thống kê hiện nay có 21
Linga trong đó có 13 Linga thể hiện 3 phần ( trụ tròn, lục giác - khối vuông),
4 Linga thể hiện 2 phần ( chỉ có trụ tròn và lục giác) và 4 linga thể hiện 1 phần ( chỉ có phần trụ tròn). Trong 13 chiếc Linga
thể hiện đủ 3 phần có 4 chiếc được định niên đại vào thế kỷ VII - IX. Linga ở
Cát Tiên chủ yếu là thể hiện đủ cả 3 phần, nhưng sự khác biệt thể hiện khá rõ
ràng trên phần trụ tròn. Trong các di tích văn hoá Óc Eo đầu Linga thường to tù tròn lớn hơn hẳn
phần Lục giác phía dưới, nhấn mạnh hơn về năng lực thần thánh. Đầu Linga ở Cát
Tiên thường thon tròn hài hoà với khối thể hiện phía dưới thể hiện có tính biểu
tượng hơn và mỹ thuật hơn.
Linga trong văn hoá
Óc Eo và Linga Cát Tiên
MukhaLinga tại di tích văn hoá óc Eo hiện nay được biết
đến 12 chiếc có mặt khá sớm trong các di tích, riêng ở Cát Tiên có một hiện vật
duy nhất. MukhaLinga có mặt sớm trong các di tích văn hoá Óc Eo, từ loại hình mũ chụp phát triển lên khắc
tạc trực tiếp lên Linga. CácLinga ở Cát Tiên cũng phát triển theo bình tuyến
này. Từ MukhaLinga gò ssố VI, đến các Linga khắc tạc mặt thần Sihva trực tiếp
gò số V hay gò số VII. Đặc biệt sự tương đồng thể hiện rõ giữa di tích Cát Tiên
và các di tích văn hoá Óc Eo qua các lá
vàng tìm được trong lòng kiến trúc. Kỹ thuật thể hiện các đề tài trang trí đều
có 2 phương pháp: dập nổi và khắc miết nét chìm. Đề tài trang trí là hình ảnh
các vị nam thần nữ thần, các con vật linh( bò , rắn, rùa…), các vật biểu tượng
của các vị thần ( đinh ba, tù và hình con ốc, bánh xe) hay các bông sen vv.. có
những điểm trùng khớp nhau không những về nội dung mà cả về phong cách thể hiện.
Nhưng kỹ thuật thể hiện trên các lá vàng Cát Tiên tinh mỹ hơn, trau chuốt hơn,
có niều nét kế thừa và phát triển trên một trình độ cao hơn. Những chữ viết
trên các lá vàng càng khẳng định sự thống nhất trong hệ thống ký tự giữa các lá
vàng tìm được tại Cát Tiên và các di tích thuộc văn hoá Óc Eo
Lá vàng
ở Cát Tiên và trong văn hoá óc Eo
Đồ gốm
tìm được ở Cát Tiên không nhiều nhưng cho thấy gốm ở đây có mặt nhiều loại hình bình, bát đĩa, ấm, cốc
chân cao…trong đó vòi ấm ( Ken di?)
hình con tiện được sử dụng khá phổ biến. Đây là những loại hình gốm có mặt phổ
biến trong đồ gốm Văn hoá Óc Eo. Qua so sánh cho thấy mối liên hệ phổ biến, chặt
chẽ giữa các di tích văn hoá Óc Eo với
di tích Cát Tiên trong lịch sử ,trên mọi loại hình, chất liệu. Đặc biệt là mối
quan hệ gần, của nhau với các di tích vùng Đông Nam Bộ.Từ những đặc trưng cơ bản
về di tích và di vật của Cát Tiên, so sánh
với các di tích di vật trong văn hoá Champa và Óc Eo cho thấy giữa di tích này có nét tương đồng
với các nền văn hoá xung quanh. Ngoài những yếu tố văn hoá nội sinh, ở đây xuất
hiện những yếu tố tương đồng văn hoá Champa; nhiều yếu tố của văn hoá Óc Eo, nhưng cũng không thuộc văn hoá Champa
hay văn hoá óc Eo mà các di tích ở đây có tuyến phát triển riêng, mang đặc trưng
văn hoá riêng của vùng đất, tộc người sản sinh ra chúng.
Bản vẽ
vòi ấm trong văn hoá Óc Eo và Cát Tiên
(Nguồn:Viện
Khảo cổ học – BT Lâm Đồng)
C. Các
nền văn hoá khác
Cùng với sự ảnh hưởng của văn hoá tôn
giáo Ấn Độ đến các vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam ngày
nay. Trong lịch sử, văn hoá tôn giáo Ấn Độ
còn ảnh hưởng, chi phối đến nhiều nền văn hoá của các tộc người trong
khu vực, hình thành nên các nền văn hoá riêng của các tộc người trên vùng Đông
Nam Á trong đó có văn hoá Khmer. Dù có sự riêng biệt, nhưng các nền văn hoá có
những điểm chung đó là văn hoá tín ngưỡng bản địa của mỗi tộc
người, mà nguồn gốc là cư dân nông nghiệp kết hợp với ảnh hưởng của văn hoá,
tôn giáo Ấn Độ hình thành nên bản sắc văn hoá riêng, cho nên các nền văn hoá có
những nét tương đồng, đặc biệt là các kiến trúc, tác phẩm điêu khắc đều thể hiện
nội dung, tôn giáo Ấn Độ giáo. Văn hoá Khmer được hình thành trên nền tảng văn
hoá, tín ngưỡng của tộc người Môn – Khmer, khi tiếp thu ảnh hưởng của văn hoá,
tôn giáo Ấn Độ đã hình thành nên bản sắc
văn hoá riêng. Mặc dù vậy, do điều kiện gần về địa lý, cùng ảnh hưởng của văn
hoá tôn giáo Ấn Độ, nên văn hoá Khmer có
nhiều nét tương đồng với các nền văn hoá ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ trên đất Việt Nam. Các tượng phật thuộc giai đoạn nghệ thuật Phnom Dã ( thế kỷ VI) được
thể hiện tương tự như các tượng phật tìm được trong văn hoá Óc Eo. Các kiến trúc tại Sambor Prei Kuk,
Prei Khmeng, Kampong Preah( thế kỷ VII – VIII) có mặt bằng, vật liệu xây dựng,
khối trang trí tương tự các kiến trúc văn hoá Champa. Đặc biệt kiến trúc Đamrai
Kráp “ di tích cổ xứ Khmer, nhưng chúng
tôi tin rằng được kiến trúc sư người Chăm xây dựng”, được coi là một kiến trúc
Champa trên đất Campuchia “ (1). Đối với những di tích ở Cát Tiên có thể thấy
có những nét tương tự nhau về mặt bằng kiến trúc, vật liệu xây dựng, hệ thống tượng
thờ, bệ thờ như những di tích Khmer giai đoạn sớm. Đó là những kiến trúc tháp
thờ, xây dựng chủ
yếu từ
chất liệu gạch, kỹ thuật xây câu móc vào nhau, nhưng ở tháp Khmer có sử dụng chất
kết dính là vôi hàu, còn ở Cát Tiên sử dụng đất sét hay nhựa cây gần gũi với kỹ
thuật xây dựng tháp Champa. Khối kiến trúc ở Cát Tiên xây gọn khoẻ, khắc tạc trang trí khá đẹp, khối
tháp Khmer xây thô, ít trang trí. Điêu khắc chủ yếu thể hiện trên
Tháp
Neang Khmao ( tỉnh Takeo – Campuchia)
(1)
Ph.Stesn: L’artdu Champa et son Evolution. Toulous 1942
bộ
khung cửa ra vào. Hệ thống bệ tượng thờ cũng tạc khối đơn giản, biểu tượng thờ,
tượng thờ cũng có nét tương tự nhau. Sự khác nhau được thể hiện rõ từ thế kỷ
IX, các di tích ở Cát Tiên được xây dựng
với những đặc điểm riêng, gần gũi với các kiến trúc Champa hay óc Eo hơn,
trong khi đó nghệ thuật Khmer mở đầu là phong cách Kulên, phát triển theo tuyến riêng, làm cơ sở tầng nền
cho nghệ thuật ĂngKo sau này phát triển
rực rỡ, hình thành nên nền nghệ thuật Khmer toả sáng trong lịch sử.
Yony và
Linga tại di tích Phnom Chiso và Bảo
tàng Phnom Pênh
Những
so sánh sơ lược giữa các di tích ở Cát Tiên với những nền văn hoá xung quanh
cho thấy, dù có những nét chung, nhưng di tích Cát Tiên vẫn là một nhóm di
tích có tuyến phát triển riêng, độc lập
của một tộc người dựng xây và phát triển hình thành nên khu di tích này.
4.
Trình tự xây dựng các di tích
Di tích
Cát Tiên là một quần thể di tích với nhiều công trình kiến trúc được xây dựng với
quy mô và chức năng khác nhau. Để định ra trình tự xây dựng các di tích, trước
hết phải xác định tính chất của khu di
tích này. Với địa hình các kiến trúc được xây dựng nằm trong các thung lũng khép kín, với chức năng
là các đền thờ, tháp thờ, đền mộ có thể
khẳng định đây là khu di tích tôn giáo. Những kiến trúc tìm được, những hiện vật
được biết đến khẳng định đây là khu tôn giáo theo Ấn Độ giáo - một khu di tích được xây dựng, vật
thờ tuân thủ theo những quy tắc, nội dung
Ấn Độ giáo. Từ nhận định đó cho thấy quá trình xây dựng hình thành di tích Cát Tiên phải đặt trong tổng thể
chung của hệ thống di tích cùng chịu ảnh hưởng văn hoá tôn giáo Ấn Độ ở Việt nam và các quốc gia trong khu vực.
Trước đây dựa vào kết quả khai quật khảo cổ học, nhiều nhà nghiên cứu đưa ra những
khung niên đại khác nhau. Có ý kiến cho rằng các di tích ở Cát Tiên có 3 giai đoạn
xây dựng:
- Giai đoạn
I, gồm kiến trúc VIa, VIb và mộ hố thám sát H2
- Giai đoạn
II, gồm các kiến trúc IIc. IId, Gò số I và Đức Phổ
- Gia đoạn
III, gồm các kiến trúc IIa, IIb, số III,
VIIa và VIIb
Khung
niên đại của di tích kéo dài từ thế kỷ IV đến thế kỷ VIII (1).
Với tư
liệu của các kiến trúc Gò số I; IIa, IIb; Gò số IV; V , sau khi nghiên cứu, so
sánh, đối chiếu với các di tích, di vật của các nền văn hoá liên quan, có ý kiến
cho niên đại của nhóm tháp này từ thế kỷ VII đến đầu thế kỷ IX( 2). Đa phần những
ý kiến khi tiếp xúc nguồn
(1)Bùi Chí
Hoàng: Khu di tích Cát Tiên- Tư liệu và nhận thức mới. Tư liệu BT Lâm Đồng.
(2)
Nguyễn Tiến Đông: Khu di tích Cát Tiên ( Lâm Đồng). Luận án Tiến sĩ Lịch sử. Hà
Nội 2002. Tư liệu Viện Khảo cổ học
tư liệu
này đều cho rằng nhóm kiến trúc này thuộc thế kỷ VIII (1). Như vậy vấn đề niên đại
của di tích Cát Tiên chưa có tiếng nói thống nhất và cần được tiếp tục trao đổi,
thảo luận. Từ những kết quả khai quật khảo cổ học như đã trình bày, cho thấy
các công trình kiến trúc ở Cát Tiên không có cùng thời điểm xây dựng. Để tìm ra
niên đại và tiến trình dựng xây hình thành di tích cần tách bạch từng kiến
trúc, nhóm kiến trúc khác nhau, từ đó định niên đại cụ thể và mối liên quan giữa
các kiến trúc trong tổng thể di tích này.
+ Gò số
I là công trình kiến trúc độc lập, được xây dựng quy mô lớn, trên địa điểm biệt
lập. Trên mặt bằng di tích này có 2 kiến trúc, đền tháp thờ chính và tháp nhỏ
thờ tượng Ganêsa. Trước hết phải nói rằng kiến trúc và hiện vật trong lòng kiến
trúc có cùng một thời điểm. Niên đại của di tích này phải phù hợp giữa di tích
và di vật. Về mặt bằng kiến trúc, so sánh với mặt bằng, hướng kiến trúc của các
công trình kiến trúc Champa có niên đại thế kỷ IX có những nét tương đồng. Hiện
vật gồm hệ thống bệ, ngẫu tượng thờ Yony- Linga lại cho thấy chúng có nhiều nét
tường đồng với các bệ thờ, Linga của thế kỷ IX trong văn hoá Champa. Linga này
cũng tương đồng trong nhóm 4 chiếc Linga thuộc văn hoá óc Eo có niên đại thế kỷ
VII - IX. Các hiện vật vàng tìm được tại Gò số I có nhiều điểm giống với các hiện
vật của di tích Đá Nổi có niên đại vào thế kỷ V- VI. Những lá vàng tìm được ở đây
lại thể hiện trình độ kỹ thuật cao hơn, tinh tế hơn. Do (1)
Tham khảo thêm : Kỷ Yếu hội thảo khoa học di tích Khảo cổ họcCát Tiên. Sở văn
hoá thông tin Lâm Đồng 2001
vậy
chúng tôi cho rằng di tích đền thờ Gò số I phải có niên đại vào thế kỷ IX là
phù hợp. Đây là một di tích được xây dựng muộn trong tổng thể di tích Cát Tiên.
Nằm trên vị trí quan trọng, đỉnh đầo cao nhất, lớn nhất của thung lũng, có thể
nơi đây trước kia là địa điểm thờ ngoài trời thờ tín ngưỡng bản địa, sau này được
nâng lên thành đền thờ chính của khu di tích.
Điểm cao trên đỉnh đồi nằm cạnh Gò số I có lẽ là nơi thờ lộ thiên còn lại
đứng song hành cùng kiến trúc thờ tôn giáo trên cùng một địa điểm. Đây là sự kết
hợp hài hoà giữa tín ngưỡng bản điạ và tôn giáo du nhập trên một địa điểm
+ Gò số
II.
Gò số
II là một nhóm kiến trúc, gồm các kiến trúc được xây dựng các thời điểm khác
nhau. Tư liệu khai quật cho thấy về tháp thờ, tháp IIb được xây dựng sau tháp
IIa, bằng chứng là hai kiến trúc này xây
gần nhau, móng kiến trúc tháp IIb xây đè lên tháp IIa. Kiến trúc nhà dài IIc,
IId được xây dựng cùng thời điểm, nhưng nhà dài IId được xây dựng nối thêm về
thời gian sau do nhu cầu sử dụng. Tháp thờ Ganêsa, tháp cổng có cùng niên đại. Để hình thành nên nhóm kiến
trúc này, ban đầu là một nhóm kiến trúc được
xây dựng khá hoàn chỉnh, bên ngoài là tường bao vây quanh, tháp thờ thần
Ganêsa, tháp cổng, bên trong tháp thờ chính IIa, nhà dài IIc, IId. Sau này được
xây dựng bổ xung thêm tháp thờ IIb và nối thêm nhà dài IId. Vậy niên đại nhóm
kiến trúc này khi nào?Trước hết đề cập đến cặp cột cửa tiện tròn, đây là loại cột
ít tìm thấy trong văn hoá Óc Eo, loại
hình này xuất hiện duy nhất một cặp cửa tại văn hoá Champa có niên đại thế kỷ
VIII và xuất hiện khá phổ biến trong các di tích thời kỳ tiền ĂngKo một nền văn
hoá ảnh hưởng chung từ văn hoá Ấn Độ. Với
các phong cách nghệ thuật Sambor ( thế kỷ VII); phong cách Prei Khmeng ( thế kỷ
VIII) và phong cách Kompong Preah ( nửa cuối thế kỷ VIII), những cột đá tiện
tròn có trang trí hình bán khuyên nằm trong phong cách Prei Khmeng.Mi cửa tại
tháp thờ IIa được thể hiện như mi cửa loại thứ hai trong nghệ thuật điêu khắc đá
cổ Chân Lạp ( thế kỷ VI - đầu thế kỷ IX) với đặc trưng hình hoa dây uốn lượn
thay cho đầu thuỷ quái Makara và hình bông hoa thay cho hoạ tiết hình huy chương ( 1). Như vậy niên đại bộ cột và mi cửa
tháp IIa được coi vào thế kỷ VIII. Theo chúng tôi, cột cửa ở đây có thể thấy
ngoài di tích Mỹ Sơn E1 có thể thấy sự tương đồng với cột cửa tiện tròn có hình
bán khuyên trên chất liệu gạch tháp Phố Hài, mi cửa giống như trang trí mi cửa
các tháp Phố Hài , Bình Thạnh. Bệ thờ Yony giống bệ thờ tháp Phố Hài. Tháp IIa
có niên đại thế kỷ VIII là phù hợp. Nếu tháp IIa có niên đại thế kỷ VIII thì
các kiến trúc tường bao tháp thờ Ganêsa, tháp cổng, nhà dài IIc, IId cũng có
chung niên đại này. Tháp IIb, phần nối thêm nhà dài IId có niên đại sau vào cuối
thế kỷ VIII.
+ Tháp
Gò số III.
Tháp Gò
số III được xây dựng có những yếu tố tương
đồng với các kiến trúc Gò IIa, IIb, đó là hệ thống khung cửa bằng đá, nhưng quy mô nhỏ hơn, thể hiện đơn giản hơn. Các lá
vàng chôn trong lòng tháp (1) Ngô Văn Doanh: Về niên đại chủ nhân khu
di tích Cát Tiên. Kỷ yếu… Tài liệu đã dẫn
cũng tương
tự như các kiến trúc tháp IIa, IIb về đề tài và kỹ thuật thể hiện, nhưng số lượng
ít hơn. Về vị trí xây dựng nằm ngoài hệ thống kiến trúc Gò số II. Điều đó cho
thấy kiến trúc này có nhiều yếu tố kế thừa
của giai đoạn kiến trúc trước. Như vậy
kiến trúc này có niên đại sau các kiến trúc IIa, có thể tương đồng với kiến
trúc IIb và phần nối thêm nhà dài IId, niên đại vào cuối thế kỷ VIII.
+ Tháp
Gò số IV
Tháp thờ
Gò số IV là một kiến trúc được xây quy chỉnh, có hệ thống tường bao vây quanh,
phía trước là hệ thống hồ nước nhân tạo. Tháp xây chất liệu gạch là chủ yếu, điêu
khắc trang trí đẹp với nhiều hoạ tiết khác nhau. Hiện vật thờ xuất hiện Linga đá
quy có kích thước lớn, Yony có hình dáng khác lạ với vòi dẫn vươn dài. Loại
hình này thường xuất hiện sớm trong văn hoá
Óc Eo. So sánh với tháp IIa có nét tương đồng là nền tháp lát đá phiến,
kỹ thuật sử lý lòng tháp sơ sài hơn, chưa quy chuẩn như tháp IIa . Những yếu tố
trên cho thấy có khả năng tháp IV được xây dựng trước tháp IIa; niên đại có thể
vào đầu thế kỷ VIII. Sau này khi hoàn thiện tổng thể kiến trúc ở đây, hồ nước
trước tháp được tạo dựng vào thời điểm cùng niên đại tháp IIa.
+ Đền mộ
Gò số V.
Gò số
V, được xây dựng loại hình là đền mộ. Điều nhận thấy là quy mô, hình khối nhỏ,
thể hiện đơn giản, nếu so sánh có thể thấy
bộ ngẫu tượng thờ và trụ lòng tháp kiến trúc Gò số I là được xây dựng
theo mô hình của kiến trúc gò số V. Điều ngược lạI, Gò số V để lại Yony và
Linga lại tương tự như kiến trúc Gò số
I, nhưng sự khác biệt là Linga ở đây có thể hiện hình tượng Sihva. Đây là một đề
tài có mặt sớm trong các di tích văn hoá
Óc Eo. Điều đó cho thấy Gò số V phải có
niên đại trước kiến trúc Gò số I.
Với đồ gốm tìm được, sự có mặt của đồ đồng cùng những yếu tố về Linga - Yony, vật
liệu xây dựng có thể thấy niên đại đềm mộ này xuất hiện sớm, vào cuối thế kỷ VI
đầu thế kỷ VII.
+ Gò
V.a.
Tìm về
niên đại Gò Va là vấn đề khó, bản thân di tích bị phá hoại nặng nề chỉ còn mặt
bằng kiến trúc và hệ thống máng dẫn nước. Về loại hình có thể xác định đây là dạng
tháp thờ với máng dẫn nước thiêng xây bằng gạch kéo dài từ bệ thờ trong lòng
tháp dẫn ra bên ngoài. Về máng nước
thiêng, có mặt trong các công trình kiến trúc tháp thờ, được xây dựng ảnh hưởng
của Ấn Độ giáo, đoa là những máng dẫn nước
được chế tác bằng chất liệu đá dùng để dẫn nước thiêng từ tượng thờ ra bên
ngoài cho các tín đồ trong những ngày cúng tế. Nhưng máng dẫn nước thiêng được
xây dựng kéo dài và bằng chất liệu gạch không nhiều, máng dẫn nước thấy được, tương
đồng với máng dẫn nước thiêng được phát hiện tại di tích tháp Vĩnh Hưng, được
xây gạch dẫn từ tháp ra bồn chứa nước mặt bắc tháp(1). Như vậy có thể tạm coi
kiến trúc này có niên đại vào thế kỷ VII - IX.
(1)Bùi Chí
Hoàng- Đào Linh Côn: Báo cáo sơ bộ khai quật thấp cổ Vĩnh Hưng( Bạc Liêu). Tư lỉệu
Viện Khoa học công nghệ xây dựng.2002
+ Kiến
trúc Gò số VI.
Trước hết
phải định rõ là cả 3 kiến trúc phát hiện tại đây được xây dựng cùng một thời điểm. Thứ hai đây
là loại hình kiến trúc đền mộ.(?). Do kiến
trúc không rõ về kết cấu, dựa vào hiện vật thu được có thể thấy hai nhóm hiện vật
khác nhau.Hiện vật trên mặt đất gồm Linga với 3 phần cân đối, hình khối hài hoà
có trang trí mi thiêng, có hình khối, thể hiện tương tự Linga Gò số I, như vậy
Linga này có sớm nhất vào thế kỷ IX. Hiện vật trong lòng đất với các Linga kim
loại đựng trong hộp gốm , hộp bạc hay trên các lá vàng thể hiện hình ảnh vị thần
nhiều đầu nhiều tay giống như hiện vật tại Gò số I. Niên đại của các nhóm kiến
trúc này sớm hơn thế kỷ IX, có thể vào cuối thế kỷ VIII. Có thể lý giải đây là
loại hình kiến trúc đền mộ có phần phía trên là vật liệu nhẹ. Phần dưới có tính
bền vững được xây dựng trước, phần trên xây dựng sau và bổ xung thêm bộ ngẫu tượng
thờ Yony Linga tạo nên điểm thờ tôn giáo hoàn chỉnh.
+ Gò số
VII.
Mặt bằng
tổng thể các di tích Gò số VII được xây dựng hoàn chỉnh với tháp thờ, nhà dài
Mandapa, tương tự như mặt bằng kiến trúc Gò số II. Hiện vật ở đây cho thấy có
khung cửa đá, Linga có 3 phần cân đối. Đặc biệt là nhóm hiện vật chất liệu đồng
với chân đèn, đĩa, vật hình chuông vv… mà có nhà nghiên cứu cho rằng có mối
giao lưu xa, nguồn gốc từ Trung á ( 1). Với hiện vật tượng Uma đánh quỷ Trâu
(1) Bùi
Chí Hoàng: Khu di tích Cát Tiên – Tư liệu và nhận thức mới. TàI liệu đã dẫn
một đề
tài thể hiện khá sớm trong các di tích ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ, thường có niên đại trước thế kỷ
VIII. Điều đó cho thấy khả năng niên đại
của nhóm di tích này có cùng hoặc sau không xa niên đại của nhóm Gò II. Dù tài
liệu còn cần được bổ xung cho thuyết phục hơn, nhưng niên đại của nhóm này thuộc
thế kỷ VIII là chấp nhận được.
+ Di
tích Đức Phổ.
Di tích
tại Đức Phổ có mặt bằng kiến trúc khá đặc biệt, kiến trúc tháp được xây dựng
trong lòng trung tâm đền thờ. Đây là loại hình đền tháp. Mặt bằng này thường có
mặt sớm trong các kiến trúc ảnh hưởng từ văn hoá tôn giáo Ấn Độ. Hiện vật ở đây
cũng khá đặc biệt với bộ ngẫu tượng Yony - Linga ghép với nhau bằng kỹ thuật mộng
chốt trụ tròn nhô lên. Linga chỉ có phần trụ tròn, một cách thể hiện sớm trong
các Linga có mặt tại các di tích ảnh hưởng từ
Ấn Độ giáo. Đặc biệt hơn bộ hiện vật chất liệu đồng ở đây với các loại
hình cốc chân cao, ly, hiện vật hình ống, bao tay có những điểm tương đồng gần
gũi với nhóm hiện vật tìm được tại tháp Vĩnh Hưng ( Bạc Liêu). Với những tư liệu
đã biết có thể thấy nhóm di tích Đức Phổ
có mặt khá sớm trong các di tích ở Cát Tiên, di tích này được xây dựng
vào cuối thế kỷ VII. Niên đại này phù hợp với ý kiến các nhà khai quật, họ cho
niên đại di tích này vào thế kỷ V- VII (1)
(1)
Bùi Chí Hoàng- Đào Linh Côn: Báo cáo khai quật
khảo cổ học địa điểm Đức Phổ… Tài liệu đã dẫn
+ Di
tích tại Gia Viễn.
Dù chưa
biết được về kiến trúc, tài liệu chỉ có một Yony cho nên khó đoán định niên đại
của di tích này. Nhưng với cách thể hiện Yony với kỹ thuật gá lắp Linga phía
trên bằng kỹ thuật chồng khớp, chính giữa có trụ tròn nhô lên thì ở Cát Tiên chỉ
có 2 hiện vật sử dụng kỹ thuật đặc biệt này đó là tháp thờ Gò số III và di tích
Đức Phổ. Hai di tích này qua phân tích kiến trúc lại có niên đại khác nhau vào
cuối thế kỷ VII ( Đức Phổ) và cuối thế kỷ VIII ( Gò số III), vậy di tích này phải
nằm trong khung niên đại ấy, có thể vào thế kỷ VIII. Đây chỉ là giả thiết công
tác, chúng tôi chỉ nêu lên để tham khảo.
Ngoài
các di tích đã nêu, tại Cát Tiên một số hố đào thám sát cung cấp thêm nhiều tư liệu về niên đại khu
di tích này. Tại hố thám sát ký hiệu 03 - CT - H2 tìm thấy dấu vết một di tích đền
mộ có quy mô nhỏ. Trong lòng đền có mộ chum, trong đó có chứa tro hoả táng, những
lá vàng. Các nhà nghiên cứu cho rằng ngôi mộ này có niên đại vào thế kỷ IV - V
(1). So sánh những lá vàng tìm được với các lá vàng trong văn hoá Óc Eo, lá vàng tìm được tại Cát Tiên, chúng
tôi cho rằng mộ chum này có niên đại thuộc thế kỷ VI. Sự xuất hiện của mộ chum
tại đây, hay sau này lại tiếp tục được sử dụng mộ chum được chôn trong lòng kiến
trúc IId cho thấy truyền thống táng tục này được bảo lưu khá lâu dài trongđời sống
tinh thần của cộng đồng cư dân. Trong một số hố thám sát còn cho thấy dấu tích
các kiến trúc được
(1) Bùi
Chí Hoàng: Khu di tích Cát Tiên…. Tài liệu đã dẫn
xây dựng
trên lớp đất cư trú với các hiện vật là đồ gốm có niên đại khá sớm thế kỷ III -
IV đã cho biết trước khi nơi đây được xây dựng các công trình kiến trúc tôn
giáo, đây đã là nơi cư trú của một tộc người có mặt sớm khai thác và sử dụng
vùng đất.Từ nguồn tư liệu đã nêu có thể dựng lại quá trình hình thành, phát triển
của các di tích trên vùng đất Cát Tiên trong lịch sử. Trước hết đây là vùng đất
sớm có người cư trú sử dụng, khi văn
hoá, tôn giáo Ấn Độ ảnh hưởng đến cộng đồng
người, vùng đất này được lựa chọn làm nơi xây dựng một trung tâm tôn giáo lớn. Các
công trình kiến trúc ở Cát Tiên có thể chia làm ba nhóm chính sau đây:
- Nhóm
có niên đại sớm gồm mộ chum H2; kiến trúc tại Đức Phổ; kiến trúc Gò số VI, niên
đại của nhóm này vào cuối thế kỷ VI đến cuối thế kỷ VII.
- Nhóm
kiến trúc gồm Gò số IV, Gò số II; Gò số III; Gò số VII và di tích tại Gia Viễn có niên đại thế kỷ
VIII.
-Nhóm
kiến trúc Gò số V và Gò số I có niên đại đầu thế kỷ IX. Trong đó Gò số V sớm hơn
Gò số I
Như vậy
khung niên đại của các kiến trúc ở di tích Cát Tiên kéo khá dài từ thế kỷ VI đến
thế kỷ IX, trong đó lại ẩn chứa nhiều yếu tố có niên đại sớm hơn hoặc muộn hơn
trong lịch sử, đó chính là những bí ẩn của di tích này cần được nghiên cứu và
trả lời xác đáng.
5. Tìm
về cội nguồn lịch sử- văn hoá
Cho đến
nay nguồn tư liệu lịch sử về vùng đất phương nam nói chung, vùng đất Cát Tiên
nói riêng còn nhiều vấn đề để ngỏ, cần đòi hỏi đầu tư nhiều hơn nữa làm sáng tỏ.
Riêng vùng đất Cát Tiên lại càng thiếu vắng. Việc phát hiện, khám phá di tích
Cát Tiên đã góp phần từng bước tìm về lịch sử văn hoá vùng đất này. Theo tài liệu
khảo cổ học cho biết với điều kiện địa hình sông suối, sự phong phú của quần thể
động thực vật nơi đây đã có sự xuất hiện của con người khá sớm. Tại thị trấn Đồng Nai ( Cát Tiên) đã tìm được 3
chiếc cuốc đá của thời đại đá mới là những bằng chứng xa xưa của vùng đất này .
Những chiếc cuốc đá có kích thước lớn, phù hợp với điều kiện canh tác nương đồi,
chứng tỏ chủ nhân của chúng đã sinh sống trên vùng đất Cát Tiên( 1). Năm 1998
cuộc khai quật khảo cổ học tại xã Phù Mỹ
có tầng văn hoá dày 0,25m với hiện vật vô cùng phong phú: rìu đá, khuôn đúc
đồng, bàn xoa đập đồ gốm, dọi xe sợi cùng 28.850 mảnh gốm của các loại hình
bát, nồi, cà ràng… cho biết cách đây hơn
3.000 năm đã có cộng đồng người cư trú. Với
tầng văn hoá dày, số lượng hiện vật nhiều, phong phú chứng tỏ nơi đây, vùng thượng
nguồn dòng sông đã có những nhóm người khá đông đúc, định cư xây dựng nên đời sống
văn hoá tín ngưỡng ban đầu(2).Thời kỳ tiếp theo là sự bùng nổ của các di dích
con người cư trú dọc theo sông Đồng Nai
từ vùng trung lưu đổ xuống hạ lưu, được biết đến qua các di tích Cái Lăng,
Cái Vạn, Rạch lá, Gò Me vùng hạ lưu; di tích Giồng
(1) Hoàng Xuân Chinh – Lê Đình Phụng: Ba chiếc
cuốc đá tìm được tại huyện Cát Tiên ( Lâm Đồng). NPHMVKCH. Hà Nội 1994
(2) Trịnh
Sinh….: Báo cáo khai quật di tích Phù Mỹ ( Cát Tiên – Lâm Đồng). Tư liệu Viện
Khảo cổ học.
Cá Vồ,
Giồng Phệt vùng cửa sông Đồng Nai đổ ra
biển. Sự bùng nổ đã tạo nên nhịp sống mới ven sông Đồng Nai, cư dân đông đúc, nền kinh tế phát triển, có mối
giao lưu với bên ngoài, đã tạo tiền đề ra đời nhà nước sơ khai, quản lý vùng đất lưu vực sông Đồng Nai. Cho đến
nay tài liệu lịch sử vùng đất phương nam cho biết về một nhà nước quốc hiệu là
Phù Nam.Theo Tấn thư “ Nước Phù Nam cách Lâm Ấp về phía Tây hơn ba nghìn lý, ở
trong vùng vịnh biển lớn, đất rộng hơn ba nghìn lý”.Nam Tề thư chép “ Nước Phù
Nam ở trong vùng dân Man, phía tây của biển lớn, ở miền nam của Nhật Nam, dài rộng
hơn 3.000 lý. Lương thư ghi chép cụ thể “
Nước Phù Nam ở phía nam quận Nhật Nam, trong vịnh lớn, phía tây của biển,
cách Nhật Nam có đến 7.000 lý, cách Lâm Ấp ở phía tây – nam đến hơn 3.000 lý, đất
trũng ẩm thấp, nhưng bằng phẳng rộng rãi”. Truyền thuyết về sự hình thành vương
quốc Phù Nam, Tấn thư cho biết “ Vua nước đó vốn là người con gái, tên là Liễu
Diệp. Thời đó, có người nước ngoài là Hỗn Hội, thờ tiên thần, nằm mộng thấy thần
ban cho cây cung và dạy là phải đi thuyền lớn ra biển…thuyền lênh đênh trên biển
tới ấp ngoài của nước Phù Nam. Liễu Diệp đưa nhiều người ra chống lại. Hỗn Hội
dương cung bắn, Liễu Diệp sợ hãi xin hàng. Hỗn Hội bèn lấy làm vợ và chiếm cứ đất
nước..”.. Nam Tề thư cho biết “ người nước ngoài cõi tên là Hỗn Điền đến miếu
thờ thần nhặt được cây cung dưới gốc cây…Hỗn Điền lấy Liễu Diệp làm vợ…cai trị
nước đó, con cháu truyền cho nhau”, đóng đô ở
Vyadapura. Hỗn Điền là một Balamôn
Ấn Độ khi cai trị vùng đất này đã đưa tôn giáo văn hoá Ấn Độ
gia nhập vào vùng đất mới Vào thế kỷ III đoàn sứ giả đầu tiên của Trung
Quốc do Khang Thái và Chu ứng dẫn đầu đã đến nước này và được vua trị vì Phạm Tầm
đón tiếp long trọng và những năm 268, 286 sứ giả Phù Nam đã có mặt tại Trung Quốc.
Vương quốc Phù Nam phát triển, thời vua Phạm Sư Man “ Ông cho đóng tàu to vượt
biển lớn tiến đánh Khuất Đô Côn, Cửu Trĩ, Điển Tôn… cả bọn hơn 10 nước . Mở rộng
đất đai hơn 5.000- 6.000 lý” trở thành một cường quốc ở Đông Nam Á thời bấy giờ.
Những dòng sử liệu trên cho thấy, có thể nhà nước sơ khai quản lý vùng đất ven sông Đồng Nai, là một trong 10 nước bị
Phù Nam khuất phục, sau một thời gian phát triển độc lập đã dần bị sát nhập
trên danh nghĩa vào vương quốc Phù Nam sau này. Vào đầu thế kỷ VII vương quốc
Phù Nam dần suy yếu và bị Chân Lạp một
thuộc quốc nổi lên thôn tính “ Vương quốc
Chân Lạp nằm ở phía tây nam nước Lâm ấp, trước kia vốn là một thuộc quốc của
Phù Nam… Vua Chân Lạp thuộc dòng dõi Kơxatơria tên là Chitơrasena… các đời vua
trước đã không ngừng mở rộng thế lực của Chân Lạp và cuối cùng đã đã đánh bại
và chinh phục Phù Nam…”. Vương quốc Chân Lạp cường thịnh và mở rộng lãnh thổ,
sai sứ sang triều cống Trung Quốc và có mối quan hệ thân thuộc với vương quốc
Champa. Theo Đường thư vào đầu thế kỷ thứ VIII tình hình nội bộ Chân Lạp bị
chia rẽ, hình thành nên hai quốc gia: Lục Chân Lạp ở vùng đất cao và Thuỷ Chân
Lạp ở vùng đất thấp “ Sau đời Thần Long( năm 705 – 707) chia làm hai, nửa phía
bắc nhiều núi gọi là Lục Chân Lạp; nửa phía nam giáp biển nhiều đầm gọi là Thuỷ
Chân Lạp”. Số phận hai vương quốc này đầy
biến động. Lục Chân Lạp “ duy trì nền độc lập và thống nhất của mình cho đến giữa
thế kỷ X thì bị các vua nước Campuchia sau này thôn tính”. Thuỷ Chân Lạp “ bị
chia cắt thành nhiều công quốc độc lập, bán độc lập” (1). Theo bút ký của Chu Đạt
Quan ,viên sứ thần Trung Quốc khi đến
Chân Lạp cho biết sau khi Phù Nam tan rã, vương triều Chân Lạp kế thừa, có đến
9 tiểu quốc là chư hầu chịu ảnh hưởng của Chân Lạp và nước nào cũng có điện
tháp thờ.(2).Nhìn chung trong buổi đầu lịch
sử vùng đất phương nam nổi lên rõ nét về sự xuất hiện của hai nhà nước kế thừa
nhau theo dòng chảy lịch sử: Phù Nam và Chân Lạp. Về con người, đời sống của cư dân vùng đất này
có thể tóm tắt qua nguồn sử liệu Trung Hoa. Tấn thư viết “ Người đều đen đúa xấu
xí, búi tóc, thân trần, đi chân đất, tính chất phác, thẳng thắn, không trộm cướp,
theo nghề cày cấy trồng trọt, một năm trồng thu hoạch 3 năm…bát đĩa phần nhiều
bằng bạc…. Người Phù Nam đúc vòng bằng vàng, bát đĩa bằng bạc, đốn gỗ làm nhà….Phù
Nam cũng có sách vở, có nhà lưu giữ sách
vở, tài liệu. Văn tự giống chữ người Hồ. Ma chay hôn nhân đại khái cũng giống
như Lâm Ấp..”. Nam Tề thư cho biết “ Người Phù Nam thông minh, lanh lợi và giảo
quyệt, đánh phá các thành ấp lân cận, bắt dân không phục làm nô tỳ…. Tục nước đó
thờ thiên thần”. Lương thư cho biết “
(1)Tham
khảo thêm Phạm Việt Trung: Lịch sử Campuchia. NXB Đại học và Trung học chuyên
nghiệp. Hà Nội 1982
(2) Chu
Đạt quan : Chan Lạp phong thổ ký. Bản dịch
tư liệu Viện KCH
phong tục thờ cúng thiên thần, lấy đồng đúc tượng,
tượng hai mặt bốn tay, bốn mặt tám tay, tay bồng đứa bé, chim, hình mặt trăng,
mặt trời…. Vua Phù Nam có khả năng viết sách chữ nước Thiên Trúc, sách có khoảng
3000 lời nói về nguyên do kiếp trước kiếp sau của vua..”(1). Như vậy có thể thấy
Phù Nam – Chân Lạp là những quốc gia chịu ảnh hưởng của văn hoá, tôn giáo Ấn Độ
khá sâu sắc trên nhiều lĩnh vực. Cho đến nay, dựa vào tài liệu thu được qua các
cuộc khai quật khảo cổ, các nhà nghiên cứu thường cho rằng văn hoá Óc Eo gắn liền với sự hình thành và phát triển
của nhà nước Phù Nam và Chân Lạp.Vậy vùng đất Cát Tiên nói riêng và vùng đất dọc
sông Đồng Nai nói chung trong tiến trình lịch sử ấy nằm trong sự quản lý của vương
quốc nào. Đây là câu hỏi chưa có sự trả lời thoả đáng. Nằm trên vùng đất giữa
các quốc gia Champa và Phù Nam – Chân Lạp, dấu tích các nền văn hoá để lại ở đây
phát triển liên tục theo một tuyến riêng; không tương đồng với các nền văn hoá
tạo nên diện mạo văn hoá Champa; Óc Eo sau này. Các di tích từ thời đại đá phát
hiện dọc ven bờ sông Đồng Nai như Dốc Mơ; Dầu Giây, Núi Đất; Cẩm Tiên, Cầu Sắt…
hay các di tích thời đại Kim khí như suối
Chồn, Phú Hoà, Hang Gòn, Bình Đa, Cù lao Rùa, Ngải thắng, Cái Lăng, Cái Vạn, Rạch
Lá… Là một hệ thống văn hoá phát triển liên tục từ thời đại đá đến thời kỳ kim
khí theo một tuyến riêng của hệ thống văn hoá sông Đồng Nai, tạo nên những tiền
đề cơ sở hình thành nhà nước Sơ
(1)
Tham khảo thêm Lương Ninh: Vương quốc Phù Nam- Lịch sử và văn hoá. NXB Văn hoá
& Thông tin. Hà Nội 2004
khai.
Trên nền tảng của tuyến văn hoá ấy có hình thành nên một nhà nước sơ khai hay
không, cho đến nay chúng ta chưa có đủ tư liệu. Nhưng sự phát triển liên tục của
các di tích từ thời đại đồ đá đến thời đại kim khí đã tạo nên một bản sắc văn
hoá riêng của vùng đất, có thể gọi đó là văn hoá sông Đồng Nai. Từ những tiền đề
văn hoá ấy, bước vào thời kỳ lịch sử do sự phát triển văn hoá nội tại cùng với
sự ảnh hưởng của văn hoá tôn giáo Ấn Độ,
cư dân bản địa đã tạo nên một vùng văn hoá riêng. Cũng như các vùng đất khác
trên dải đất Việt Nam, vào những thế kỷ đầu công nguyên khi các thương
nhân Ấn Độ giong buồm vào buôn bán, địa điểm
đầu tiên họ tiếp cận là các vùng cửa sông, cửa ngõ các vùng đồng bằng để giao lưu
trao đổi tìm kiếm bạn hàng. Từ tiếp xúc ban đầu, họ từng bước truyền bá văn hoá
tôn giáo vào cư dân địa phương một cách hoà bình. Người dân bản địa bắt gặp một
tín ngưỡng, tôn giáo có nét tương đồng và dần dần họ tiếp nhận một cách tự nguyện.
Trên cơ sở đó họ xây dựng nên bản sắc văn hoá của riêng mình. Ảnh hưởng của tôn giáo, văn hoá Ấn Độ đã
thành công trong các khối cộng đồng cư dân miền Trung làm nên văn hoá Chăm rực
rỡ, trong khối cộng đồng cư dân Nam Bộ tạo nên văn hoá Óc Eo toả sáng và những cộng đồng cư dân nam
Tây Nguyên cũng nằm theo quy luật đó. Điều đáng tiếc cho đến nay, tài liệu bi ký, vùng đất này chưa tìm được, những tự dạng khắc
trên lá vàng chưa được giải mã, khó có thể biết rằng nơi đây có xã hội có tổ chức
hay không? Những tài liệu lịch sử của những dân tộc liên quan lại không ghi
chép về vùng đất, nhưng những ghi chép trong sử cũ đều thừa nhận trên vùng đất
phía nam trong lịch sử, không phải là một xã hội có tổ chức thống nhất, mà có
nhiều tổ chức xã hội nhỏ khác nhau được coi là những “ tiểu quốc”. Dù có những
giai đoạn thống nhất trên danh nghĩa, nhưng mỗi vùng đất ấy có sự độc lập nhất định.
Vùng đất dọc theo sông Đồng Nai cũng nằm trong bối cảnh lịch sử chung ấy. Với cửa
ngõ là hệ thống cửa sông Đồng Nai đổ ra biển, có những bến cảng thuận lợi cho
những thuyền buôn Ấn Độ cập bến trao đổi
buôn bán. Với trình độ phát triển kinh tế, văn hoá khá cao, cư dân vùng đất từng bước tiếp thu ảnh hưởng của
văn hoá, tôn giáo Ấn Độ, họ xây dựng, tổ
chức xã hội theo mô hình Ấn Độ. Trong tiến
trình phát triển ấy, có giai đoạn phát triển độc lập, có giai đoạn phát triển chung cùng văn hoá Óc Eo, di tích Cát Tiên được hình thành và
phát triển trong giai đoạn này.Vào những thời kỳ lịch sử sau, nguồn tư liệu lịch
sử Việt Nam cho biết “ Chân Lạp ở phía nam Chiêm Thành… từ đời Đường về sau đất
chia làm hai, nửa về phía bắc có nhiều gò núi gọi là Lục Chân Lạp, tiếp đó là
Khuất hạ( nay là Cao Lạp), nửa về phía nam giáp biển gọi là Thuỷ Chân Lạp…” (1).
Như vậy điều này đúng với sử liệu Trung Hoa cho biết Thuỷ Chân Lạp bị chia cắt
thành nhiều công quốc độc lập, bán độc lập và có một nước Khuất Hạ nằm chuyển
tiếp giữa Lục Chân Lạp vùng núi cao và Thuỷ Chân Lạp vùng đồng bằng giáp biển. Thế
kỷ XVII khi mở xứ Đồng Nai “ đất Đồng Nai từ các cửa biển Cần giờ, Xoài Rạp, cửa
Đại
(1)Tham
khảo thêm Nguyễn Trãi toàn tập- phần Dư địa chí. NXBKHXH 1982
cửa Tiểu,
toàn là rựng rậm hàng mấy nghìn dăm”, nhà Nguyễn đã “ xem địa thế đặt luỹ chia
dinh, tập hợp dân binh, chia ruộng cho dân lập nghiệp” (1) Vào cuối thế kỷ XIX
khi đi khảo sát dọc sông Đồng Nai, các nhà thám hiểm cho biết “ Bộ tộc quan trọng
nhất chúng tôi gặp là bộ tộc Châu Mạ. Ngày xưa họ sống trong một vương quốc hùng
cường, trải dài từ Nam kỳ đến phía bên kia núi Lang- Biang và từ sông Đồng nai đến
dãy núi chạy dọc theo bờ biển miền Trung. Patao- hậu duệ nối dõi vua Mạ- chỉ cầm
quyền phía nam này; tuy nhiên ông cũng có một số uy quyền với các bộ tộc người
Thượng khác…Người trong các bộ tộc đều sử dụng một ngôn ngữ duy nhất: tiếng Mạ…”
(2). Cũng thời gian này đoàn thám hiểm được tiếp xúc với một người tự xưng là
vua Vương quốc Mạ, nhưng họ nhận ra
“ Vua Mạ khác những người đồng hành về hình dáng và đường nét, không phải
thuộc giòng giống người thượng”. Sau này chưa biết dựa vào nguồn tài liệu
nào có ý kiến cho rằng “ khối Sơ Ma thì
từ xưa họ đã là một nước nhỏ chiếm
ở miền rừng núi giữa Bình Thuận là đất Chiêm Thành và Biên Hoà là đất Chân Lạp.
Sau khi chúa Nguyễn đã
(1).Tham
khảo thêm Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục. NXBKHXH. Hà Nội 1977
(2)
Tham khảo thêm:- Paul Nðis: Rapport sur une excursion faite chez les Mois.
Excursions et reconnaissances. Sài gòn 1881
- Paul
Nðis et Albert Septans: Rapport sur un voyage d’ exploration aux sources du Đông
Nai. Excusions et reconnaissances. Sài gòn 1881( dẫn theo Nguyễn Hữu Tranh:
Thám hiểm thượng lưu sông Đồng Nai. T/C
Thông tin KH &CN Lâm Đồng số 4- 1998)
chiếm hết
nước Chiêm Thành và bắt đầu chiếm đất Biên Hoà Gia Định của Chân Lạp thì nước Sơ
Ma không thể tồn tại độc lập được nữa ở ngay trên con đường giao thông của người
Việt nam từ Khánh Hoà, Bình Thuận vào Biên Hoà, Gia Định. Thế là nước ấy suy
tàn và các bộ lạc phải tản cư lên miền tây Bình Thuận và miền đông nước Cao Miên”
(1). Luận điểm này được phát triển dựng lên tiến trình của nhà nước Sơ ma dù
còn sơ lược. “ Ở khoảng giữa nước Chiêm
thành và Chân Lạp tức giữa đất Trung Việt và Nam Việt ngày nay, xưa có một tiểu
quốc Mọi, ấy là nước Che Mạ. Người Che Mạ vốn ở đồng bằng hạ lưu sông Đồng Nai
và sông Cửu Long, dưới quyền thống trị của nước Phù Nam, nhưng vì thích tự do
và không chịu thần phục bởi những chế độ chính trị của Phù Nam, nên rời bỏ miền
này mà tới sinh sống trong miền hoang vu này.
Ấy là một vùng rừng rậm, động cát, những ngọn đồi lẻ tẻ, những thung lũng
lầy lội, kéo dài từ bờ biển Bình Thuận cho tới vùng hạ lưu và trung lưu sông Đồng
Nai. Miền này thông với Chân Lạp dễ
ràng. Vốn đã bị tiêm nhiễm ít nhiều văn hoá Phù Nam, đến đây họ lập một tiểu quốc,
có lẽ cũng không khác gì Thuỷ Xá, Hoả Xá bao nhiêu, phục tùng một vị Pháp sư mà
họ coi như vua vậy. Nước Che Mạ gồm nhiều nhánh Churu (hay là Trau) ở vùng giáp
giới phía tây Bình Thuận và Nam Việt trên những mũi núi cuối cùng của dãy Trường
Sơn và vùng Bà Rịa, nghĩa là gần biển nhất ( Mạ , Cóp, Che Srê, Che Tô, Koho,
Lat) và sau khi Chân Lạp thay
(1) Đào
Duy Anh:Đất nước Việt Nam qua các đời. NXB Thuận Hoá 1996.
Phù Nam
thì họ thần phục Chân Lạp. Thế lực mới Che Mạ lan rộng sang tây nam đến lưu vực
sông La Ngà và phía bắc lên đến cao nguyên Di Linh và cao nguyên Lạng Biên. Là
một nước nhỏ làm trái độn giữa hai nước Chiêm Thành và Chân Lạp, nước Che Mạ tồn
tại khi hai nước ấy tồn tại. Nhưng đến khi các chúa Nguyễn đã chiếm hết đất
Chiêm Thành, tiến vào Chân Lạp thì Che Mạ cũng phải mất..”(1)
Lược
qua những dòng tài liệu trên cho thấy sự tương đồng về mặt địa lý giữa không
gian văn hoá Cát Tiên với không gian địa lý của
“tiểu quốc” Sơ Ma hay Che Mạ. Vậy Di tích Cát Tiên có thuộc “ tiểu quốc”
này hay không? Cho đến nay vấn đề này vẫn
để ngỏ. Một số nhà nghiên cứu dựa vào không gian của di tích, những truyền thuyết, hiện vật tìm được cho rằng đây là “thánh địa”
tôn giáo của người Chăm vùng đất phía Nam Panduranga (2). Một số người cho rằng
đây là trung tâm tôn giáo của Thuỷ Chân Lạp (3). Một số ý kiến cho rằng chủ
nhân của khu di tích này có thể là của
người Mạ (4) và cho rằng người Mạ
“ sau khi xây dựng cái “vĩ đại” quá sức mình rồi gặp sự can thiệp ngoại lai thì
suy thoái là cái chắc”.(5)
(1)
Phan Khoang: Việt sử xứ Đàng Trong. NXB Văn học. Hà Nội 2001
(2)
SaKaya:Góp thêm tư liệu về thánh địa Cát Tiên ( Lâm Đồng).T/C KCH số 2- 2004.
(3) Ngô
Văn Doanh: Vấn đề niên đạI và chủ nhân của Khu di tích Cát Tiên. Kỷ yếu hội thảo khoa học..tài liệu đã dẫn
(4)
Tham khảo thêm:Nguyễn Tiến Đông: Di tích Cát Tiên với xứ Mạ. T/C NCĐông Nam á số
5- 2000.
(5)Trần
Quốc Vượng: Đề dẫn. Kỷ yếu hội thảo khoa học…tài liệu đã dẫn…
Và đa
phần cho rằng Cát Tiên là Cát Tiên riêng, có một bình tuyến phát triển riêng “
Cát Tiên không thuộc hệ thống kiến trúc của văn hoá Champa lẫn văn hoá Óc Eo.”(1)Để tìm về chủ nhân di tích Cát Tiên, trước hết chúng ta xem xét
các khía cạnh trên di tích , di vật tìm được.Đối với văn hoá Champa, sau khi so
sánh đối chiếu điều nhận thấy chúng có những nét tương đồng, có sự ảnh hưởng lẫn
nhau, nhưng điều chắc chắn đây là hai nền văn hoá riêng biệt, cùng chịu ảnh hưởng
của văn hoá tôn giáo Ấn Độ. Đối với văn
hoá Óc Eo, hai nền văn hoá này có nhiều
nét tương đồng, sự ảnh hưởng lẫn nhau sâu đậm, nhưng so sánh chi tiết nó cũng
không phải là của nhau, mà chỉ là hai nền văn hoá đứng bên nhau.Vậy các di
tích, di vật trong di tích Cát Tiên phải là nền văn hoá độc lập “ Việc xây dựng một cụm công trình lớn như ở
Cát Tiên, đương nhiên đòi hỏi những chi phí và nhân lực không nhỏ. Những mảnh
vàng và những vật quý khác nếu có nguồn
gốc bên ngoài thì cũng không được mang đến cho tặng mà phải trao đổi bằng vật
phẩm của mình bằng lâm sản, đá quý có thể có ở một vùng đất phún xuất. Một công
trình như thế, lượng của cải như thế , chắc phải là thành tựu của một quốc gia,
một vương triều, một xã hội có tổ chức và có trình độ văn hoá khá phát triển…Nó
đã có quan hệ kinh tế, văn hoá và chịu ảnh hưởng khá
rõ của tất cả các quốc gia gần kề là Champa; Chân Lạp và Phù Nam, nhưng lại
(1) Lê Đình
Phụng: Khu di tích Cát Tiên ( Lâm Đồng). Kỷ yếu khoa học… tài liệu đã dẫn
không lệ
thuộc hoặc chịu sự chi phối của một quốc gia nào” (1).
Như vậy có thể khẳng định các di tích Cát Tiên
là một nền văn hoá riêng, văn hoá của những tộc người quản lý vùng đất lấy sông
Đồng Nai làm trục trung tâm và lan toả ra xung quanh. Nền văn hoá ấy xuất hiện
từ thời đại đá trên vùng đất trung thượng lưu, nở rộ trong thời đại kim khí lan
toả xuống hạ lưu, từ đó tiến trình phát
triển liên tục mà đỉnh cao hội tụ của thời
kỳ lịch sử là sự xuất hiện của di tích Cát Tiên. Nền văn hoá ấy lấy văn minh
nông nghiệp, săn bắt, khai thác rừng làm chủ đạo, có đời sống tín ngưỡng tinh
thần riêng. Từ tín ngưỡng bản địa kết hợp với tôn giáo ảnh hường từ bên
ngoài tạo nên một sắc thái văn hoá vùng đất
riêng mang đậm ảnh hưởng của văn hoá tôn giáo
Ấn Độ. Trong quá trình hình thành và phát triển, nền văn hoá ấy không
khép kín, mà luôn mở rộng giao lưu với các vùng đất bên ngoài. Sự ảnh hưởng của
văn hoá Ấn Độ thể hiện qua các di tích,
di vật là chủ yếu, thì ở đây xuất hiện
các đồ đồng có nguồn gốc Trung á, gương đồng nguồn gốc Trung Hoa, hay những yếu
tố của văn hoá Champa, văn hoá Óc Eo đã
nói lên tính hội nhập, đa dạng của nền văn
hoá này để phát triển trong lịch sử. Từ nhận định trên bước đầu tìm về chủ nhân của nền văn hoá. Cho
đến nay, khi tiếp xúc với cư dân vùng đất này, người ta vẫn coi các tộc người
sinh sống trên cao nguyên là những tộc người bản địa trong đó có người Mạ.“Người
Châu Mạ cư trú ở những thung lũng đến tận nơi sôngĐồng Nai chảy
(27) Lương
Ninh: Cát Tiên – Di tích và lịch sử. Kỷ yếu khoa học… Tài liệu đã dẫn
về đồng bằng một cách uể oải như dừng lại để
nghỉ ngơi sau khi thoát khỏi những mỏn núi gập ghềnh trên thượng nguồn, họ tập
trung đông nhất ở các khúc quai rộng bao la.. Họ sống giữa bụi bờ cây leo, cây
ké, cây mây; họ phát cây thông đường đi rừng, săn bắn hái lượm, trồng tỉa, đi lại
chặt đẽo và cần cù lao động…”(1). Như vậy có thể thấy địa bàn cư trú của người
Mạ trước đây bao gồm từ cao nguyên Lang Biang, Di Linh xuống đến hạ lưu sông La
Ngà, Đồng Nai, trong đó tập trung đông nhất vùng trung lưu sông Đồng Nai. Người
Mạ hiện nay có khoảng 25.059 người, trong đó tập trung chủ yếu trên địa
bàn Lâm Đồng khoảng 20.000. Về nhân chủng
người Mạ thuộc loại hình Anhđônêdiên, chiều cao trung bình ở nam giới khoảng
1,57m, trên 1,5m đến 1,56m đối với nữ giới. Màu da ngăm đen hoặc nâu sẫm, mặt tương
đối rộng, gò má hơi dô, mũi bè. Tóc cứng,
phần nhiều là tóc thẳng, có người tóc hơi xoăn. Tiếng nói của người Mạ thuộc ngữ
hệ Nam á, nhóm ngôn ngữ Môn – Khmer. Hình thái kinh tế, người Mạ canh tác du
canh du cư, lấy kinh tế nương rẫy làm chủ đạo, nghề thủ công có nghề rèn, chế
tác gốm và dệt vải. Người Mạ cư trú thành từng làng với khu đất đai riêng biệt
có đường ranh giới rõ rệt, đó là con sông, con suối, khe đá, thung lũng vv.. Do
phương thức canh tác nương rẫy du canh du cư nên quy mô làng của người Mạ thường
nhỏ, ít hộ gia đình. Đời sống tinh thần trong cộng đồng người Mạ, những tàn dư
tôn giáo nguyên thuỷ còn tồn tại khá đậm nét. Họ
(1)J
Bou lbett: Kỹ thuật xứ Mạ…Tài liệu đã dẫn.
quan niệm
mọi hành động trong đời sống hàng ngày đều do các lực lượng siêu nhiên chi phối
mà họ gọi là Yang. Người Mạ thờ cúng nhiều Yang như Yang Bơnơm( thần núi); Yang
Bri ( thần rừng); Yang Koi( thần lúa); Yang Hiu ( thần nhà) vv… trong đó có
Yang Ndu là thần tối cao. Người Mạ có kho tàng nghệ thuật dân gian vô cùng
phong phú, các loại hình truyện cổ, truyện thần thoại, hò đối đáp, luật tục, âm
nhạc mang đậm bản sắc riêng của tộc người. (1)
Di tích
cát Tiên được phát hiện trên địa bàn cư trú lâu đời của người Mạ. Người Mạ ở
Cát Tiên có nhiều truyền thuyết kể về
vùng đất này, truyền thuyết về núi Chơ reng, truyền thuyết về núi Đá
Mài, huyền thoại núi sương đá vv… cùng
những truyền thuyết liên quan đến khu di tích . Truyền thuyết kể rằng trên đỉnh
dốc của sông Đồng Nai là chỗ ở của 7 vị thần có tên: Ktiêng, K Mun, Kkoon; K
Moon, K Giang… các vị thần này hay tranh giành đánh lẫn nhau, thần K Tiêng dùng
sét đánh đổ nhà thần Kmoon, hay nữ thần Ka Giêng chiến thắng quỷ Trâu. Rồi một ngày bỗng dưng đất trời mù sương lạnh,
con người súc vật, bễ thổi lửa, voi, cá sấu đều hoá đá…(2).Truyền thuyết
(1)Tham
khảo thêm: Phan Ngọc Chiến – Phan Xuân Biên: Người Mạ- Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng.
Sở Văn hoá - Thông tin Lâm Đồng 1983
-
Dân tộc Mạ. NXB Thống Kê
-
Đinh Thị Nga: Tín ngưỡng cư dân Mạ ở Đồng Nai. T/C
Thông tin khoa học và công nghệ Lâm Đồng số 1 –1995
(2)
Tham khảo thêm- Đinh Thị Nga: Cuộc thám hiểm thánh địa Balamôn của vương quốc
Phù Nam. T/C : Cát Tiên 10 năm hình thành và phát triển. Đà Lạt 1996
ở đây
phải chăng là ảnh xạ của một thời đã qua của khu di tích. Điều đó cho thấy khu
di tích không xa lạ mà cũng không gần gũi trong tâm thức người Mạ ở đây. Họ quy
mọi dấu vết, hiện tượng về cho các thần, phù hợp với tín ngưỡng nguyên thuỷ
trong đời sống tinh thần của họ. Di tích Cát Tiên là trung tâm tôn giáo mang đậm
tính chất Ấn Độ giáo hoàn toàn xa lạ với
người Mạ hiện nay; quy mô kiến trúc to lớn, huy động mọi của cải tài lực mà nền
kinh tế của người Mạ khó đáp ứng. Mối quan hệ của di tích này trong lịch sử rộng,
hoàn toàn xa lạ với xã hội khép kín của cư dân Mạ. Từ xưa cho đến nay người Mạ
vẫn cư trú ổn định trên vùng đất mà di
tích này được coi là trung tâm , nơi tựu trung tinh hoa trí tuệ của cả vùng đất thế mà bị bỏ chìm hoang vắng, phải chăng nó
hoàn toàn xa lạ với đời sống tinh thần của chủ nhân vùng đất. Nếu thực sự tồn tại
một “tiểu quốc” Sơ Ma hay Che Mạ mà chủ thể chính là người Mạ như đã nêu thì có
lẽ số phận di tích Cát Tiên đã có danh phận rõ ràng trong nền văn hoá dân tộc.
Như vậy
chủ nhân di tích Cát Tiên là ai?
“ Một
công trình như thế, lượng của cải như thế, chắc phải là thành tựu của một quốc
gia, một vương triều, một xã hội có tổ chức và có một trình độ văn hoá khá phát
tiển”(1). Di tích Cát Tiên phải là trung tâm tôn giáo của một quốc gia riêng biệt,
không phải Champa cũng không phải Phù Nam – Chân Lạp. Lãnh địa của “vương quốc” này
(1)Lương
Ninh: Cát Tiên- Di tích và lịch sử. Tài liệu đã dẫn
nằm giữa
Champa và Phù Nam, trước kia có thể là một “ tiểu quốc” ban đầu độc lập, sau dần
lệ thuộc vào Phù Nam. Khi Phù Nam tan rã thì “ tiểu quốc” này cũng mất theo. Di
tích Cát Tiên ban đầu là trung tâm tôn giáo của tộc người quản lý vùng đất sông
Đồng Nai, sau này, khi hội nhập vào Phù Nam, do tính chất riêng biệt, độc lập,
tiểu vùng, khu di tích tiếp tục được dựng xây, phát triển, quy mô lớn hơn, vẫn
giữ vai trò là trung tâm tôn giáo của cộng đồng cư dân và sau này khi Phù Nam hết vai trò lịch sử
thì khu di tích cũng dần mất vai trò đảm nhận. Chủ nhân tạo dựng di tích là một tộc người có mối quan hệ chặt chẽ và cùng tộc người với
chủ nhân văn hoá Óc Eo, họ có chung nguồn
gốc. Họ sinh sống dọc theo sông Đồng Nai từ thượng nguồn xuôi dần về biển, quản
lý cả vùng đất đỏ Baran màu mỡ Đông Nam Bộ bao la và vùng nam Tây Nguyên trù
phú, có một bề dày phát triển hàng ngàn năm tiến tới trình độ kinh tế văn hoá
khá cao, có mối liên hệ đa chiều với cư dân văn hoá Óc Eo, có mối quan hệ thương mại rộng. Từ nền
kinh tế phát triển với tín ngưỡng ban đầu, khi tiếp thu văn hoá, tôn giáo Ấn Độ, họ xây dựng nên bản sắc văn hoá riêng
của cộng đồng tộc người, mà Cát Tiên là
trung tâm tôn giáo. Trong cộng đồng các dân tộc của tiểu quốc ấy, ngoài ra tộc người chủ nhân chính còn có người Mạ,
Stiêng, K.Ho đóng góp vai trò quan trọng hình thành nên cương vực, văn hoá, tôn
giáo của “ tiểu quốc”ấy trong lịch sử… Vào thế kỷ VI – VIII khi vương quốc Phù
Nam suy yếu và tan rã, tiểu quốc này có điều kiện phát triển độc lập trong mối
quan hệ kinh tế văn hoá đã có từ trước. Họ mở rộng mối quan hệ với văn hoá Champa, Thủy Chân Lạp sau này và
phát triển rực rỡ vào thế kỷ VIII – IX. Thế kỷ IX – X khi nền văn minh Ăng Ko xuất hiện, phát triển và lan toả, nằm
trong vùng ảnh hưởng chung, chịu sức ép của
trung tâm văn hoá lớn từ văn minh
ĂngKo toả ra, lại tồn tại trên địa bàn không gian hẹp, điều kiện môi trường
khó phát triển, chủ nhân tạo dựng khu di tích Cát Tiên dần quay trở lại hoà đồng với các tộc người cùng
văn hoá tôn giáo, bỏ lại sau lưng những tộc người ở lại vùng đất này, cùng khu
di tích bị lãng quên trong lịch sử. Sau thế kỷ X, chủ nhân còn lại của vùng đất
chủ yếu là người Mạ, họ bảo lưu được nhiều yếu tố văn hoá phi vật thể của thời
kỳ trước, nhưng yếu tố vật thể thì không được duy trì, tồn tại. Sự cách biệt
lâu dài, dần đẩy họ vào tình cảnh cô lập, giữ mãi trình độ kinh tế xã hội và văn
hoá từ hơn nghìn năm trước, đắm chìm trong cuộc sống hoang sơ, kinh tế kém phát
triển cùng tập tục cổ xưa, họ cũng không nhớ rằng, trên vùng đất họ sinh sống,
xưa kia đã từng có một quốc gia có tổ chức, có trình độ kinh tế phát triển, có
nền văn hoá riêng và có mối quan hệ giao lưu với bên ngoài. Chính vì thế sau
này khi tiếp xúc nghiên cứu vùng đất này
các nhà nghiên cứu đã nói về xứ Mạ “ vốn đã bị ít nhiều tiêm nhiễm văn hoá Phù
Nam”, mà chưa đề cập đến chủ nhân đích thực tạo dựng nên nền văn hoá Cát Tiên
trong lịch sử.
THAY LỜI KẾT
Di tích Cát Tiên cho đến nay vừa
tròn hai thập niên phát hiện và nghiên cứu ( 1986 – 2006). Sau 7 lần khai quật
cùng nhiều cuộc đào thám sát được thực hiện, diện mạo khu di tích dần xuất lộ,
nhưng những gì ẩn chứa trong lòng đất vẫn là điều bí mật. Cho đến nay trong nhiều cuộc hội thảo, nhiều
báo cáo khoa học còn nhiều vấn đề được thảo luận về vị trí, vai trò, chủ nhân của
di tích này trong lịch sử. Có vấn đề có tiếng nói chung, có vấn đề tiếp tục
tranh luận làm sáng tỏ, nhưng với những giá trị tìm được đã khẳng định di tích
Cát tiên là một trung tâm văn hoá tôn giáo quan trọng trong tiến trình lịch sử
văn hoá vùng đất phương nam, góp thêm một mảng sáng vào nền văn hoá dân tộc đa
sắc màu trong lịch sử.
Nằm
trên địa bàn giữa vùng đất nam Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Di tích Cát Tiên là một
quần thể gồm nhiều công trình kiến trúc, được xây dựng tập trung đậm đặc trên một
địa bàn. Quy mô các kiến trúc to lớn, có thể coi đây là một trung tâm tôn giáo
lớn nhất trên vùng đất phía nam. Nếu các kiến trúc tại Mỹ Sơn thuộc văn hoá
Champa, được các nhà nghiên cứu coi như một “ đô thị tôn giáo”, thì với số lượng
kiến trúc hiện biết, Cát Tiên cũng được
coi như một “ đô thị tôn giáo” trên
vùng đất phương nam. Phát hiện ra di tích Cát Tiên có giá trị đặc biệt, ý nghĩa,
khi mà các công trình kiến trúc trong văn hoá
Óc Eo hầu như còn không đáng kể, thì những kiến trúc ở Cát Tiên là nguồn
tư liệu tin cậy, phong phú góp phần vào tìm hiểu bản sắc văn hoá vùng đất phía
nam cùng những ảnh hưởng của văn hoá, tôn giáo
Ấn Độ đến vùng đất trong lịch sử. Những kiến trúc, hiện vật tìm được ở Cát Tiên khẳng định, đây là khu tôn giáo được
xây dựng và thờ phụng chịu ảnh hưởng của
Ấn Độ giáo. Tính chất tôn giáo của di tích Cát Tiên, nằm chung trong
truyền thống của các nền văn hoá của các tộc người trên dải đất Việt Nam như văn
hoá Champa; văn hoá Óc Eo, các kiến trúc
được xây dựng thờ các vị thần Ấn Độ
giáo, đặc biệt nhấn mạnh đến hình thức thờ ngẫu tượng Yony – Linga, biểu tượng
của các vị thần. Việc thờ ngẫu tượng
Yony – Linga làm chủ đạo trong các công trình kiến trúc được xây dựng ở Việt
Nam, chịu sự ảnh hưởng của tôn giáo Ấn Độ
là một nét độc đáo riêng, phản ánh tâm thức chung của cư dân vùng đất dưới hình
thức vỏ bọc Ấn Độ giáo, nhưng ẩn chứa nội
dung thờ thần phồn thực( âm – dương) của cư dân nông nghiệp cầu mong được
mùa. Điều này khác hẳn văn hoá Khmer các
công trình kiến trúc chủ yếu là thờ tượng. Đó chính là nét riêng, độc đáo của
khu di tích Cát Tiên cùng các nền văn hoá Champa, Óc Eo trên đất Việt Nam. Với hàng trăm hiện vật
là những lá vàng tìm được, có thể nói đây là bộ sưu tập đầy đủ, nguyên vẹn nhất,
phong phú nhất tìm được ở các di tích ảnh hưởng của văn hoá tôn
giáo, Ấn Độ trên vùng đất phương nam. Thông
qua nội dung phản ảnh được khắc tạc trên các lá vàng đã cho biết về đời sống
tinh thần của cư dân vùng đất. Bên cạnh đó các hiện vật còn phản ánh đời sống
kinh tế, kỹ thuật sản xuất vật liệu, xây dựng kiến trúc, chế tác kim loại, nhận
thức thẩm mỹ của chủ nhân tạo tác ra
chúng. Đặc biệt hơn, các hiện vật còn nói lên không gian mở của vùng đất với các vùng trên thế giới, những giao lưu thương
mại không những với Ấn Độ mà cả với những
vùng Trung Á xa xôi. Nếu như ở văn hoá Óc Eo tìm được sự có mặt của các đồng tiền có
nguồn gốc La Mã, thì ở Cát Tiên với sự có mặt của các hiện vật có nguồn gốc
Trung Á đã khẳng định mối quan hệ mở đã tạo điều kiện thuận lợi, làm động lực
cho vùng đất phát triển. Khi không còn mối
quan hệ đó, sự phát triển của vùng đất
thiếu hẳn sức sống, dẫn đến sự suy tàn của cả một nền văn hoá đã từng toả sáng
một thời rực rỡ. Bị chi phối bởi sự thăng trầm của lịch sử, sự can thiệp dãi dầu
của nắng mưa, trải qua những tháng năm không bao giờ trở lại, những đền tháp nguy nga rực rỡ xưa
kia bị đổ nát, cho đến hôm nay chỉ còn lại tàn tích của một thời huy hoàng đã
qua. Những phát hiện, khám phá mới, đang từng bước đưa Cát Tiên lại toả rạng hào quang, khẳng định đây là một
tài sản văn hoá vô giá của người xưa gửi
lại cho hậu thế. Một thông điệp của quá khứ gửi lại cho hiện tại, cùng chúng ta
song hành bước vào thời kỳ mới : xây dựng và phát triển một nền văn hoá tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc trong tương lai.
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
1.Nguyễn
Trãi toàn tập phần Dư địa chí. NXB KHXH. Hà Nội
1982
2.Đào
Duy Anh: Đất nước Việt nam qua các đời. NXB Thuận Hoá 1996
3. Phan
Khoang: Việt sử xứ Đàng Trong. NXB Văn học . Hà Nội 2001
4. Lê
Quý Đôn: Phủ biên tạp lục. NXB KHXH. Hà Nội 1977
5.Lương
Ninh: - Vương quốc Champa. NXB Đại học Quốc gia. Hà Nội 2004
- Vương
quốc Phù nam – Lịch sử và văn hoá. NXB văn hoá & Thông tin. Hà Nội 2005
6.Lê Bá
Thảo: Thiên nhiên Việt Nam. NXB Khoa học & Kỹ thuật. Hà Nội 1977
7. G.
Maxpero : Vương quốc Chàm. Bản dịch tư liệu viện KCH
8.Lê
Xuân Diệm- Đào Linh Côn- Võ Sĩ Khải : Văn hoá
Óc Eo- những khám phá mới. NXB KHXH .Hà Nội 1995
9. Lê Xuân Diệm – Vũ Kim Lộc: Cổ vật Champa. NXB
Văn hoá dân tộc. Hà Nội 1996
10.
Nguyễn Tấn Đắc: Văn hoá Ấn Độ. NXB
TPHCM.2000
11.Cao
Huy Đỉnh: Tìm hiểu thần thoại Ấn Độ.NXB
Khoa học. Hà Nội 1964.
12.Nguyễn
Thừa Hỷ: Tìm hiểu văn hoá Ấn Độ. NXB Văn
hoá. Hà Nội 1986
13. Điêu khắc Chàm. NXBKHXH .
Hà Nội 1988
14. Đào
Linh Côn: Mộ táng trong văn hoá Óc Eo. Luận
án TS Lịch sử. TPHCM 1995.
15.Nguyễn
Thị Hậu: Di tích mộ chum ở miền đông Nam bộ- Những phát hiện mới tại Cần Giờ. Luận
án TS Lịch sử. TPHCM 1996.
16.Phạm
Hữu Mý: ĐIêu khắc Champa. Luận án TS Lịch sử. TPHCM 1994
17. Lê
Thị Liên:Nghệ thuật Phật giáo và Hindu giáo ở đồng bằng sông Cửu Long trước thế
kỷ X. Luận án TS Lịch sử. Hà Nội 2003.
18,
Nguyễn Tiến Đông: Khu di tích Cát Tiên ( Lâm Đồng). Luận án TS Lịch sử . Hà Nội
2002.
19. Hà
Bích Liên : Quan hệ giữa vương quốc
Champa với các quốc gia trong khu vực. Luận án TS Lịch sử. Hà Nội 2000.
20.Lê Đình
Phụng: Kiến trúc điêu khắc ở Mỹ Sơn- Di sản văn hoá thế giới. NXBKHXH. Hà Nội
2004.
- Tìm
hiểu lịch sử kiến trúc tháp Champa. NXB Văn hoá & Thông Tin. Hà Nội 2005
21.Will
Durant: Lịch sử văn minh Ấn Độ. NXB Văn
hoá & Thông tin. Hà Nội 2003.
22.J.
Boulbet: Phương thức và kỹ thuật xứ Mạ. Bản dịch tư liệu Viện KCH.
- Xứ người
Mạ - Lãnh thổ của thần Linh. NXB Đồng Nai 1999
23L
Malleres: Tìm hiểu biểu tượng nghệ thuật điêu khắc Phật giáo- Balamôn giáo ở Đông
Dương. Bản dịch tư liệu viện KCH
24
Wendy.doniger oflaherty: Thần thoại Ấn Độ.NXB Mỹ Thuật. Hà Nội 2005
25. G
Coedes: Lịch sử cổ đại các nước ở Viễn đông chịu ảnh hưởng của nền văn
minh Ấn Độ. Bản dịch tư liệu viện KCH
26.Một
số vấn đề khảo cổ học ở miền nam Việt Nam. NXBKHXH. Hà Nội 2004
27. Sở
văn hoá thông tin Lâm Đồng: Kỷ yếu hội thảo khoa học di tích khảo cổ học Cát
Tiên.2001
28.Báo
cáo khoa học về khai quật di tích Cát Tiên lưu trữ tại Viện KCH- Bảo tàng tổng
hợp tỉnh Lâm Đồng
29. Địa
chí Lâm Đồng- Phần các di tích Lịch sử. UBNDtỉnh Lâm Đồng 2002
30. Các
thông báo NPHMVKCH hàng năm
31. Các
bài viết trên các T/C KCH, Nghiên cứu Lịch sử; Nghiên cứu Đông Nam á hàng năm vv…
NHỮNG
CHỮ VIẾT TẮT
T/ C: tạp
chí
KCH: Khảo
cổ học
NXB:
Nhà xuất bản
KHXH:
Khoa học xã hội
NPHMVKCH:
Những phát hiện mới về khảo cổ học
TPHCM:
Thành Phố Hồ Chí Minh.
TS: Tiến
Sĩ.
KHKT:
Khoa học kỹ thuật
MỤC LỤC
Lời tác
giả
tr 1
Chương
I: Vài nét về địa lý cảnh quan – lịch sử vùng đất
1.
Vài nét về địa lý cảnh quan tr 3
2.
Đôi nét về lịch sử vùng đất tr 7
Chương
II: Những khám phá di tích Cát Tiên
I. Lịch sử phát hiện và nghiên cứu tr 13
II.Những
khám phá qua khai quật khảo cổ học
1 Nhóm di tích tại xã Quảng Ngãi tr16
a .Gò Số I ( hay còn gọi
là đồi Khỉ) tr
17
b. Gò số II
tr 78
+ Gò số IIa
tr 80
+ gò số IIb
tr121
+Gò số IIc
tr 128
+ Gò số IId tr132
c. Gò số III
tr 139
d. Gò số IV
tr151
e. Gò số V
tr 156
g Gò
số Va
tr 161
h Gò số VI( hay còn gọi là
Gò Kiểm Lâm) tr 162
p. Gò số VII
tr 168
k. các kiến trúc khác trên địa
bàn xã Quảng Ngãi tr 177
2. Các
nhóm di tích khác.
- Di
tích tại xã Đức Phổ
tr 181
- Di
tích tại xã Gia Viễn
tr 196
Chương III: Giá
trị văn hoá- Lịch sử của di tích Cát
Tiên
1.
Không gian văn hoá tr
199
2. Đặc trưng của di tích
tr 202
3.Mối quan hệ giữa di tích Cát Tiên với
các nền văn hoá khu vực
a.văn hoá Champa tr 217
b.văn hoá óc eo
tr 226
c.các nền văn hoá khác tr
232
4. Trình tự xây dựng các di
tích tr 235
5. Tìm về cội nguồn lịch sử – văn
hoá tr
245
- Thay lời kết
tr 263
- Tài liệu tham khảo tr 266
- Những chữ viết tắt
tr 268
- Mục lục
tr 270
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét