CHÙA BÁO ÂN( GIA LÂM - HÀ NỘI)
TRONG HỆ THỐNG CHÙA THIỀN PHÁI TRÚC lÂMChùa Báo Ân là một ngôi chùa cổ, nằm trên vùng thềm đất cao của dòng sông cổ thuộc địa bàn thôn Quang Trung, xã Dương Quang ( Gia Lâm – Hà Nội). Chùa tọa lạc trên gò đất cao, vùng thềm đất cao, ven dòng sông cổ, nằm ở tọa độ 105000’280” kinh đông, 21000’280”vĩ bắc bên bờ tả ngạn sông Thiên Đức xưa. Sau nhiều biến động của tự nhiên và xã hội, trải qua hai cuộc chiến tranh cùng những biến cố xã hội, chùa bị phá dỡ, những hiện vật liên quan thuộc chùa cũng được thu gom chuyển vào ngôi đền thờ vua Trần Nhân Tông bên cạnh. Trong ngôi đền thờ vua Trần bên chùa hiện nay còn lưu giữ khá nhiều tượng Phật như: bộ tượng Tam thế, tượng Di Đà tam tôn, tượng Quan Âm chuẩn đề, tượng sư tổ Bồ Đề Đạt Ma, tượng A Di Đà, cùng tượng vua Trần Nhân Tông, các tượng hậu, các tượng liên quan đến Phật giáo.
Chùa
Báo Ân hiện nay do mới được tôn tạo lại nên có quy mô nhỏ, vị trí ngôi chùa lùi về chức năng ngôi chùa làng
bình dị và dần bị lãng quên, nhưng
nằm trên vùng di tích có diện tích lớn với nhiều di vật liên quan đến ngôi chùa
cổ xưa kia. Hiện nay, bước đầu thống kê tại
di tích có 6 tấm bia đá, 1 cây hương đá, một số tháp mộ xây quanh chùa. Theo bi kí hiện còn lại cho biết, năm Long Đức nhị niên (1629) dòng họ
chúa Trịnh gồm Ngọc Tử họ Trịnh cùng các quận công, đô đốc tướng quân, đô đốc
phủ … đã bỏ tiền ra tu sửa chùa để lấy phúc cho dòng họ (Báo Ân đại thiền tự
bi kí). Nội dung văn bia ghi lại lịch
sử ngôi chùa cùng những lần trùng tu tôn tạo và khẳng định đây là lần trùng tu
sửa chữa lớn chùa Báo Ân, sửa chữa tam quan, bái đường, thiêu hương, lầu
chuông, gác trống, tô tượng, lập bi kí để truyền lại cho hậu thế.Bia khắc
năm Dương Hoà nhị niên (1636) còn ghi rõ: Vương phủ nội đệ nhị cung tần Đào Thị
Ngọc Hữu cùng với con là Khuê quận công Trịnh Lựu và quận chúa Ngọc Xuân, Ngọc
Niệm cúng cho chùa 26 mẫu ruộng cùng 6 dật bạc tinh để chi dùng việc đèn hương.
Bà Thái Thị Ngọc Phi cũng cúng 9 sào ruộng cùng 5 dật bạc tinh cho chùa, v.v…Nhiều
năm sau đó, chùa Báo Ân liên tục được trùng tu sửa chữa: năm Cảnh Hưng thứ 10
(1750), năm Minh Mạng thứ 4 (1824) đúc lại chuông chùa (Báo Ân tự chung),
năm Thành Thái thứ 4 (1892), sửa chữa tiền đường, phật điện (Trùng tu Báo Ân
tự bi kí),hay bia năm Thành Thái năm 11( 1899). ca ngợi chùa là một danh lam nổi tiếng xứ Kinh Bắc vv...
Bia chùa Báo Ân
Trong
khuôn viên chùa còn có một số tháp mộ. Tháp xây bằng gạch nung già
cao gần 10 m với ba tầng thu nhỏ vút lên. Kích thước gạch 24 cm x 14 cm, dày 7
cm.Hai tháp mộ
đá kích thước nhỏ, tạo từ đá nguyên khối, lòng tháp có ghi: Nam Thiên Quốc lập
tàng phù môn, trụ trì Bắc Lập, pháp hiệu Chân Ngôn, tự Thắng Minh. Cùng với những dấu vết, di vật hiện biết, quá trình canh tác, đào đắp
xây dựng trên vùng đất chùa cũ cùng tìm được nhiều hiện vật kiến trúc, đồ gốm
sứ liên quan đến ngôi chùa đã từng được dựng xây trong lịch sử.
I.Chùa Báo Ân - một ngôi chùa cổ:
1.1. Theo truyền thuyết, chùa được xây dựng từ thời Lý gắn liền
với sự tích người con gái hương Thổ Lỗi nên duyên cùng vua Lý Thánh Tông, sau
này trở thành Linh Nhân Hoàng Thái Hậu. Sau sự biến bức tử Dương Thái Hậu cùng
72 cung nữ (1073), Hoàng Thái Hậu hối lại “dựng chùa thờ Phật, trước sau hơn trăm
sở… để sám hối và sửa oan”, trong đó có chùa Báo Ân trên quê hương . Hương Thổ
Lỗi năm 1068 đổi thành hương Siêu Loại, do đó chùa còn có tên gọi là chùa Siêu
Loại.Chùa buổi đầu được xây dựng quy mô nhỏ hẹp, sau này được mở mang xây dựng
dần.
Theo các cụ địa phương kể lại cho biết, chùa được xây
dựng quy mô to lớn nhất vào thời Trần; chùa có tới 36 nóc nhà, thềm trùng tiếp
mái với 99 gian với hai lớp tam quan nội
và ngoại. Chùa xây dựng khang trang, trang trí đẹp lộng lẫy. Chùa là nơi thờ
phật kiêm hành cung của nhà vua, nên còn có tên gọi là chùa Cả. Theo truyền
thuyết cho biết, vào thời Trần,công chúa nhà Trần đi chơi thuyền trên dòng sông
Thiên Đức, đến đoạn sông trước chùa bị gió nổi sóng to lật thuyền chết đuối. Vua Trần
tức giận đổi tên sông là sông Bất Nghĩa, trên đoạn sông công chúa mất vua cho
xây dựng lại một ngôi chùa. Đó chính là chùa Báo Ân. trên cơ sở một ngôi chùa
cũ.
1.2. Chùa Báo Ân ghi chép trong lịch sử.
Theo tài liệu lịch sử, qua các công trình nghiên cứu về Phật giáo cho
biết, buổi sơ khởi chùa Báo Ân có tên gọi là chùa Siêu Loại có mặt từ thời Lý mang tên theo
đơn vị hành chính : Hương Siêu Loại; do
Thiền sư Trí Thông trụ trì.Cuối thời Lý sang thời Trần chùa đã khá nổi danh
trong làng Thiền học; vua Trần Nhân Tông đã từng đến thăm
và đàm đạo tại chùa. Tháng 8 năm 1299, vua Trần Nhân Tông chính thức xuất gia tại
chùa Hoa Yên, núi Yên Tử lấy pháp hiệu là Hương Vân Đầu Đà, sau đổi là Trúc Lâm
Đầu Đà và xây dựng một giáo hội mới mà sau này các nhà nghiên cứu gọi là Thiền
phái Trúc Lâm. Chùa Siêu Loại đã được Thiền sư Trí Thông hiến cho Thiền phái
Trúc Lâm và được mở mang xây dựng quy mô lớn, trở thành một cơ sở chớnh của Thiền
phái này trong các mùa kiết hạ hằng năm.Năm 1306, nhà sư Pháp Loa được lập làm giảng chủ chùa
Báo Ân (Siêu Loại). Ngày mồng một tết năm 1308, Trúc Lâm chính thức uỷ Pháp Loa
trụ trì chùa Siêu Loại dưới sự chứng kiến của hoàng gia triều Trần đứng đầu là
vua Trần Anh Tông “… Điều Ngự đem sơn môn Yên Tử và chùa Siêu Loại uỷ cho Pháp
Loa kế thế trụ trì, làm vị tổ sư thứ hai phái Trúc Lâm (Tam tổ thực lục)”.
Năm đó, nhà nước cúng cho chùa 100 mẫu ruộng và cấp người cày cấy để lấy hoa lợi
cho chùa. Pháp Loa là người đầu tiên được vua Trần Anh Tông cấp độ điệp sau khi
nhận chức trụ trì chùa Báo Ân ở Siêu Loại khi tổ đệ nhất Trúc Lâm còn sống.Thời kì Pháp Loa đứng đầu giáo hội, Thiền phái
Trúc Lâm có sự phát triển mạnh mẽ. Trong 19 năm, Pháp Loa dựng hơn 800 ngôi
chùa lớn (Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh), đặc biệt chùa Báo Ân nơi ông
trụ trì được xây dựng mở rộng thành trung tâm Phật giáo lớn. Được sự ủng hộ của
hoàng gia cùng tăng ni phật tử về vật chất: năm 1312, vua Trần cúng dường 5 vạn
quan tiền, cúng 500 mẫu ruộng của Niệm từ Trang vào chùa làm bất động sản… Năm
1313, theo di chiếu của Trần Nhân Tông, vua Anh Tông lấy đồ vật thờ tự tam bảo
của mẹ mà cúng vào chùa Báo Ân, lại cúng dường vật liệu xây dựng và cung cấp thợ phu để làm thêm chùa tháp. Cùng năm đó
Bảo từ Hoàng Thái Hậu cúng vào chùa 300 mẫu gia điền. Năm 1315, Anh Tông lấy 30
mẫu ruộng của người cung nhân cũ họ Phạm cúng vào chùa, v.v… Những sự ủng hộ đó
đã dần tạo điều kiện cho Pháp Loa dương danh phát triển Thiền phái Trúc Lâm
trên vùng đất truyền thống của nhiều thiền phái đạo Phật khác. Năm 1314, tại chùa Báo Ân, Pháp Loa đã xây tới 33 cơ
sở trong đó có Phật điện tàng kinh và Tăng đường, mời hai vị sư huynh là Tông Cảnh,
Bảo Phác về chùa Siêu Loại mở những lớp về Tứ phần luật cho tăng sĩ và
in 5.000 bản Tứ phần luật phát cho các tăng sinh.
Chùa Báo Ân đã trở thành cơ sở đào tạo tăng sĩ, phật tử
lớn góp phần khẳng định vai trò quan trọng của Thiền phái Trúc Lâm trong đời sống
xã hội Việt Nam đương thời. Khoá khai giảng năm 1322 ở chùa Báo Ân có trên
1.000 người đi nghe. Những buổi ít người đi
nghe nhất cũng khoảng 500-600 người.
Bản thân Pháp Loa là người trực tiếp giảng những kinh, luật cho các đệ tử tại
chùa mình trụ trì. Đây đã trở thành nơi xuất gia của nhiều người trong hoàng tộc.
“Hoàng Thái hậu đã quy y tại chùa… Năm 1323, Văn Huệ Vương và Uy Huệ Vương đến
chùa Báo Ân xin thụ Bồ Đề tam giới và Phát Quán đỉnh”. Chùa Báo Ân còn là cơ sở
in ấn kinh sách lớn nhất thời bấy giờ. Nhờ có bản gỗ tàng trữ tại chùa Báo Ân
nên kinh sách được ấn hành rộng rãi, cung cấp đầy đủ cho nhu yếu học Phật trong
khắp xứ. Qua ghi chộp có thể thấy, thời
kì Pháp Loa trụ trì là thời kì phát triển thịnh đạt nhất của chùa Báo Ân. Sau
khi Pháp Loa mất, cùng chung với sự trống vắng của phái Trúc Lâm, sự quan tâm của hoàng tộc cùng Thiền phái
Trúc Lâm, ngôi chùa dần xuống cấp. Chùa Báo Ân cũng mất dần vai trò của nó theo năm
tháng.
Vào thế kỷ XVII, cùng với sự phục
hưng của Đạo Phật, được sự quan tâm của các Hoàng tộc thời Lê – Trịnh, hệ thống
chùa chiền được quan tâm trùng tu tôn tạo, trong đó có các chùa của thiền Phái
Trúc Lâm và chùa Báo Ân cũng nằm trong số đó. Ngoài các chùa Quỳnh Lâm; Hoa Yên
( Quảng Ninh); Vĩnh Nghiêm ( Bắc Giang); Côn Sơn ( Hải Dương), những trung tâm
chính của thiền phái Trúc Lâm thưở trước, chùa Báo Ân được các quận chúa họ Trịnh, cung tần Đào thị ngọc
Hữu; Khuê quận Công Trịnh Lựu, quận chúa Ngọc Xuân, Ngọc Niệm ; Thái thị Ngọc
Phi cùng nhiều người trong Hoàng gia, Phủ chúa bỏ ruộng tiền cung tiến sửa chữa
xây dựng chùa thêm to đẹp. Ngôi chùa được các phật tử gìn giữ, tu sửa, bảo quản
đến nửa đầu thế kỷ XX (1947) vẫn được coi là một Đại danh lam Phật giáo, trung tâm văn hóa tín
ngưỡng lớn tren vùng đất cửa ngõ phía Đông kinh thành Thăng Long xưa.
Như vậy
trong quá trình tồn tại và phát triển, chùa Báo Ân có hai giai đoạn hưng
thịnh, hai giai đoạn phát triển của ngôi chùa này đều gắn bó mật thiết với hai
vương triều thịnh trị trong lịch sử : nhà Trần và nhà Lê ( Trung Hưng); gắn bó
với hai Hoàng tộc và là trung tâm tôn giáo chính của thiền phái Trúc Lâm khi
hưng thịnh cũng như khi phục hưng cận kề Thăng Long vùng cửa ngõ phía Đông. Thân
phận của ngôi chùa gắn bó mật thiết với số phận của hai triều đại và có thể coi
chùa Báo Ân là ngôi chùa của Hoàng tộc trong lịch sử.
1.3 Chùa Báo Ân qua tư liệu khai quật khảo cổ học.
Đẻ tìm về dấu
vết chùa Báo Ân được xây dựng trong lịch sử, trong các năm 2002- 2003 -2004 Bảo
tàng lịch sử Việt Nam tiến hành khai quật gần 500m 2.Địa tâng hố
khai quật cho thấy từ độ sâu 0,2m – 2,4m là tầng văn hóa ẩn chứa dấu vết kiến
trúc và các vật liệu, hiện vật của các thời đại khác nhau từ Trần đén thời
Nguyễn. Đáng chú ý từ độ sâu 1,4m – 2,4 m là địa tầng thuần nhất chứa di tích
và di vật thời Trần. Dấu tích kiến trúc để lại cho thấy:
+ Những dấu tích kiến trúc xây dựng thời Trần ( 1226
-1400)
Qua các lần
khai quật, những dấu tích kiến trúc tìm được tại độ sâu 1,2m – 1,6m đều được xây dựng dưới thời Trần với nhiều
thành phần kiến trúc tìm được khác nhau.
- Dải móng bó nền dài 3,5m cao 0,6m tại phía đông gò
chùa. Bó nền được xếp bằng gạch khối hộp
chữ nhật màu đỏ. Kích thước các viên gạch dài 32 x 14 x 3,5cm và 19,3 x
19,4 x 3,5cm. Kỹ thuật xây xếp so le nhau liên kết vững chắc. Lớp dưới cùng
gạch được xếp nghiêng vững chắc.
- Nền kiến trúc
lát gạch tìm được trong hố khai quật khoảng 7m 2. Lớp nền này còn
tiếp tục lan rộng ra diện tích bên ngoài. Nền lát gạch vuông phẳng; kích thước
34x 31 x 5cm. Gạch được nung già, cứng màu đỏ tươi chịu lực và mài mòn của khí
hậu.
- Nền sân chùa nằm ở độ sâu 0,9m được lát gạch hình
vuông khá phẳng; giới hạn nền sân bằng lớp gạch chữ nhật xếp nghiêng khóa giới
hạn sân dài 1,45m. Gạch lát sân hình vuông, được nung già, màu đỏ, cứng. Kích
thước cạnh 0,35- 0,37cm x 0,35- 37cm;
dày 4,5cm.
- Bó hiên kiến trúc nằm ở độ sâu 1,22m, xuất lộ trong
hố khai quật dài 4,5m. rộng 1,2m chia làm 2 cấp chênh nhau 0,2m, mặt cấp rộng
0,6m
- Dải nền kiến trúc gia cố gạch và ngói xuất lộ diện
tích 30m2. Nền được xử lý bằng gạch, ngói đá vỡ được đầm lèn chặt
dày 0,3 – 0,4m. Lớp nền này đầm chắc, vững gia cố của nền hoặc sân kiến trúc
cho vững chắc.
- Trụ móng kiến trúc tìm được 6 trụ móng, gồm hai hàng
song song nhau, mỗi hàng 3 trụ. Các trụ móng được gia cố hình gần vuông, cạnh
0,6m x0,8m, được sử dụng 2-3 lớp gạch ngói vụn đầm lèn chặt vững chắc. Đây là
trụ chịu lực của công trình kiến trúc. Khoảng các các móng trụ cho thấy cột cái
cách cột quân là 1,5m; hai cột cái cách nhau 2,9m. Như vậy có thể thấy bước
gian của kiến trúc xây dựng trước kia chiều ngang là 2,9m.
- Đường ống cấp thoát nước nằm ở độ sâu 1,6m, chạy
theo chiều bắc – nam song song với phần móng phía đông. Hiện trạng tìm được
đường cống dài 5,6m với 22 khoang ống cống hình trụ tròn nối nhau, đường kính
19 -21cm.
- Dấu vết các ô bồn hoa được dùng mảnh ngói hoặc gạch
xếp dựng đứng ghép khít với nhau thành ô hình vuông và chữ nhật tạo thành các ô
bồn với kích thước 3m x 3m hoặc 2m x 2m.
- Mảng gia cố kiến trúc dạng nêm cối, đó là những mảng
gia cố có dạng hình tròn đường kính 4m, các viên gạch ngói được đóng chèn chặt
như nêm cối tạo nên những mảng nền vững chắc.
Những dấu vết kiến trúc thời Trần tìm được qua khai quật ở đây, cho thấy có những kiến
trúc có mặt bằng quy mô lớn, xây dựng to đẹp. móng chịu lực cao và hướng kiến
trúc quay mặt nhìn về phía Tây, nơi dòng sdoong Thiên Đức chảy trước mặt chùa.
+ Những dấu tích kiến trúc thời Lê.
Dấu vết kiến trúc thời Lê nằm ở độ sâu trung bình 1,0m
gồm:
- Dấu vết móng kiến trúc gồm hàng gạch xếp đứng, khóa
hàng gạch lát phía trong, giữa có khe rãnh rộng 5- 7cm. Gạch sử dụng có kích
thước dài 30cm x 12cm x 5,5cm.
- Trụ móng cột
gồm 4 trụ chia thành 2 hàng chạy song song, khoảng cách trụ cách nhau 2,9m. Trụ
móng được sử dụng gạch, ngói vỡ thời Trần đập nhỏ đầm lèn chặt là trụ chịu lực
cột của kiến trúc. Giữa các trụ móng cột được liên kết với nhau bằng đường gạch
bó vỉa xếp nghiêng liên kết với nhau.
- Hệ thống ống
dẫn thoát nước nằm tại độ sâu 0,6m -0,8m dài 6 -8m được tạo bởi hai viên ngói
hình trụ đường kính 0,3m dài 15cm xếp khít vào nhau, hàng trên và dưới so le,
nói tiếp nhau tạo nên hệ thống cống.
Hiện
vật.
Hiện vật thu được qua các cuộc khai quật khá phong phú
gồm nhiều loại hình, chất liệu khác nhau của nhiều thời đại. Có thể chia thành
các nhóm chính:
Nhóm hiện vật có niên đại thời Trần:
- Vật liệu xây dựng gồm gạch xây dựng, gạch lát nền.
Gạch khối chữ nhật,. cạnh vuông vức, được nung già, độ
cứng cao. Kích thước dài 34- 36cm; rộng 16 -18cm; dày 4cm. Một số viên có khắc
chữ Vĩnh Ninh trường, hay niên đại chế tác: Hưng Long thập nhị niên ( 1304)
Gạch lát nền hình vuông, dày, được nung già, độ cứng
cao, màu đỏ tươi. Mặt gạch gồm 2 loại:
để trơn và có trang trí. Đề tài
thể hiện là hoa cúc trong vòng tròn hay hình thoi hoa dây. Kích thước các viên
gạch:33,5cm x 33,5cm x 4,5cm.
Gạch
lát nền chùa Báo Ân
Ngói
gồm nhiều loại: gồm ngói mũi đơn và kép. Đặc biệt ở đây tìm được ngói mũi hài tráng
men màu xanh lục, men màu trắng đục với lớp men dày bóng, phủ đều rất đẹp.
Ngói úp
nóc có kích thước lớn, nung già cứng,
trên ngói có các ký tự định vị khi sử dụng như Bắc nhất, bắc nhị, chứng tỏ số
lượng nung và được sử dụng tại công trình khá lớn.
Nhóm
đất nung trang trí kiến trúc gồm nhiều loại như lá đề trang trí hình rồng
Hình
rồng trên trang trí kiến trúc đất nung
Gạch ốp
trang trí hình tiên nữ múa, cánh sen, hoa cúc. Các trang trí kiến trúc hoa văn
hoa dây uốn lượn, hoa văn xoắn, hồi văn vv...
Đồ gốm
sứ gồm bát đĩa, chân đèn lư hương. Đặc
biệt là đồ gốm sản xuất thời Trần với đặc trưng men vô cùng phong phú: men màu
nâu, đen nhạt, men ngọc, men trắng hoa nâu vô cùng phong phú mang đặc trưng của
một thời kỳ lịch sử
Gốm
thời Trần chùa Báo Ân
Nhóm
hiện vật có niên đại thời Lê:
Nhóm hiện vật thời Lê thu được khá phong phú,
gồm vật liệu xây dựng, đồ gốm sứ, đồ sành với các loại hình bát đĩa, lon, bình,
vại ang. Đặc biệt là đồ gốm men trẵng vẽ lam thế kỷ XVI – XVIII chiếm đa số.
Đồ đất
nung thời Lê TKXVII
Kết quả
khai quật khảo cổ học đã góp tư liệu vật chất khách quan phản ánh trung thực sự
ra đời và phát triển của chùa Báo Ân qua các giai đoạn lịch sử mà truyền thuyết
cùng tư liệu lịch sử ghi lại trong ký ức và sử sách.
II. Chùa Báo Ân – Ngôi chùa bên dòng sông
cổ.
Do biến
đổi của tự nhiên, sự can thiệp của con người, cho đến nay dòng sông Thiên
Đức trước chùa đã dừng chảy, con đường giao thông thủy quan
trọng trước kia không còn bóng thuyền bè một thưở sầm uất lưu thương và tiếng
chuông chùa ven sông đã tắt. Nhưng quá khứ vinh quang một thời vẫn ẩn chứa
trong lòng đất và bên dòng sông tĩnh lặng vẫn ánh xạ một thời huy hoàng của
ngôi chùa cổ bên dòng sông cổ.
Tài liệu
thực địa khảo
sát trên địa bàn cho biết, cội
nguồn sông
Thiên Đức xưa tách ra từ sông Hồng nơi ngã ba Dâu (xã Thượng Cát – Gia Lâm)
cách kinh đô Thăng Long không xa, dòng sông uốn mình chảy xuôi theo hướng đông
nam và tách
ra chi lưu đầu tiên mà cửa sông mở trên địa bàn thôn Lời- thôn Lở xã Đặng Xá chảy qua địa bàn các Phú Thuỵ, Dương Quang,
xuôi xuống sông Như Quỳnh (sông Nghĩa Trụ) hoà nhập cùng sông Dâu. Đoạn sông
này còn có tên là sông Bất Nghĩa. Truyền thuyết trong vùng kể rằng, vào thời
nhà Trần có công chúa đi thuyền từ kinh đô Thăng Long về chùa Báo Ân đến đoạn
sông này do sóng to gió cả thuyền bị lật, công chúa chết đuối, vua giận quá gọi
đoạn sông này là sông Bất Nghĩa.Sông Dâu,
theo tài liệu gần đây và dựa vào dấu tích còn lại cho thấy, từ
sông Thiên Đức, theo dòng chảy nghiêng
về đông, dòng sông lại tách thêm nhánh ra trên địa phận xã Lệ Chi ngày nay, mà nơi cửa sông mở trên địa bàn mang tên làng Cổ Giang. Khúc
sông này chảy quanh co mà dấu vết đế lại là hệ thống khe trũng, ao hồ liên hoàn
chảy qua các thôn Trà Lâm; Tư Thế ( Thuận Thành) sau chảy qua trước mặt Tây thành Luy Lâu , gọi tên sông Dâu. Sông Dâu chảy xuôi xuống qua địa bàn các xã Hà Mãn, Nguyệt Đức, Song Liễu
thuộc huyện
Thuận Thành hợp lưu gặp sông Nghĩa Trụ. Hai nhánh sông đã hoà nhập vào
nhau tạo nên ngã ba sông rộng lớn, dòng chảy xuôi về Lục Đầu. Xuôi ngược hệ thống sông có thể ngược cùng sông Thiên Đức nối về Thăng Long, và ngược lại từ Thăng Long theo hệ thống sông xuôi về vùng biển Đông Bắc. Con đường thuỷ này đến
đầu thế kỉ XIX vẫn nhộn nhịp thuyền bè qua lại:
Lênh đênh ba bốn thuyền kề
Chiếc ra Hà Nội, chiếc về sông Dâu
Hệ
thống sông này tồn tại khá lâu trong lịch sử, giữ vị trí vai trò quan trọng
trong vùng đất.Từ sông Mẹ gắn kết với kinh thành Thăng Long, qua hệ thống sông
Thiên Đức với các chi lưu sông Dâu, sông Nghĩa Trụ ( Bất Nghĩa) tạo nên hệ giao
thông thủy thuận lợi với các vùng đất trù phú quan trọng như vùng trung tâm Phật giáo Luy Lâu, vùng
đông bắc đất nước với trung tâm Phật giáo Yên Tử, Quỳnh Lâm; Côn Sơn. Vào thời Lý – Trần khi hệ thống đề điều trị thủy mới
manh nha xuất hiện thì hệ thống sông
nước chiếm vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế và giao thông. Từ Thăng
Long theo sông Thiên Đức đến được các
trung tâm Phật giáo lớn vùng đông bắc. Đây là con đường giao thông thủy thuận
lợi, ngắn nhất nối vùng đất phên dậu
phía đông với kinh đô. Nằm ở vị trí ấn ngữ trên con đường giao thông thủy quan
trọng này; chùa Siêu Loại được dựng xây giữ vị trí trung độ trên con đường thủy
Thăng Long nối vùng đông Bắc. Chính vì thế khi thiền phái Trúc Lâm được khai
sinh, chùa Siêu Loại đã được nhà Trần chú tâm dựng xây thành một trung tâm tôn
giáo lớn, một cơ sở quan trọng của thiền phái Phật học hoàng gia. Có lẽ chùa
được chú trọng hưng công sau năm 1299 khi Trân Nhân Tông xuất gia. Viên gạch đề
ghi niên hiệu “ Hưng Long thập nhị niên( 1304) tìm được tại chùa Báo Ân đã nói
lên điều đó, điều này phù hợp với tài liệu năm 1308 Tổ nhất Trúc Lâm Trần Nhân
Tông trước khi viên tịch không lâu đã ủy
thác chù trì chùa Siêu Loại cho tổ thứ hai là Pháp Loa dưới sự chứng kiến của
đệ tử thiền phái cùng Hoàng tộc nhà Trần. Chắc
năm này ngôi chùa được xây dựng xong hoàn thiện đã dẫn đến sự kiện trên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét