Thứ Sáu, 21 tháng 11, 2014

CHÙA BÁO ÂN( GIA LÂM - HÀ NỘI)

  TRONG HỆ THỐNG CHÙA THIỀN PHÁI TRÚC lÂM
   
 Chùa Báo Ân  là một ngôi chùa cổ, nằm trên vùng thềm đất cao của dòng sông cổ thuộc địa bàn thôn Quang Trung, xã Dương Quang ( Gia Lâm – Hà Nội). Chùa tọa lạc trên gò đất cao, vùng thềm đất cao, ven dòng sông cổ, nằm ở tọa độ 105000’280” kinh đông, 21000’280”vĩ bắc bên bờ tả ngạn sông Thiên Đức xưa. Sau nhiều biến động của tự nhiên và xã hội, trải qua hai cuộc chiến tranh cùng những biến cố xã hội, chùa bị phá dỡ, những hiện vật liên quan thuộc chùa cũng được thu gom chuyển vào ngôi đền thờ vua Trần Nhân Tông bên cạnh. Trong ngôi đền thờ vua Trần bên  chùa hiện nay còn lưu giữ khá nhiều tượng Phật như: bộ tượng Tam thế, tượng Di Đà tam tôn, tượng Quan Âm chuẩn đề, tượng sư tổ Bồ Đề Đạt Ma, tượng A Di Đà, cùng tượng vua Trần Nhân Tông, các tượng hậu, các tượng liên quan đến Phật giáo.
Chùa Báo Ân hiện nay do mới được tôn tạo lại nên có quy mô nhỏ, vị trí ngôi chùa lùi về chức năng ngôi chùa làng bình dị và dần bị lãng quên,  nhưng nằm trên vùng di tích có diện tích lớn với nhiều di vật liên quan đến ngôi chùa cổ xưa kia.  Hiện nay, bước đầu thống kê tại di tích có 6 tấm bia đá, 1 cây hương đá, một số tháp mộ xây quanh chùa. Theo bi kí hiện còn lại  cho biết, năm Long Đức nhị niên (1629) dòng họ chúa Trịnh gồm Ngọc Tử họ Trịnh cùng các quận công, đô đốc tướng quân, đô đốc phủ … đã bỏ tiền ra tu sửa chùa để lấy phúc cho dòng họ (Báo Ân đại thiền tự bi kí). Nội dung văn bia ghi lại  lịch sử ngôi chùa cùng những lần trùng tu tôn tạo và khẳng định đây là lần trùng tu sửa chữa lớn chùa Báo Ân, sửa chữa tam quan, bái đường, thiêu hương, lầu chuông, gác trống, tô tượng, lập bi kí để truyền lại cho hậu thế.Bia khắc năm Dương Hoà nhị niên (1636) còn ghi rõ: Vương phủ nội đệ nhị cung tần Đào Thị Ngọc Hữu cùng với con là Khuê quận công Trịnh Lựu và quận chúa Ngọc Xuân, Ngọc Niệm cúng cho chùa 26 mẫu ruộng cùng 6 dật bạc tinh để chi dùng việc đèn hương. Bà Thái Thị Ngọc Phi cũng cúng 9 sào ruộng cùng 5 dật bạc tinh cho chùa, v.v…Nhiều năm sau đó, chùa Báo Ân liên tục được trùng tu sửa chữa: năm Cảnh Hưng thứ 10 (1750), năm Minh Mạng thứ 4 (1824) đúc lại chuông chùa (Báo Ân tự chung), năm Thành Thái thứ 4 (1892), sửa chữa tiền đường, phật điện (Trùng tu Báo Ân tự bi kí),hay bia năm Thành Thái năm 11( 1899). ca ngợi  chùa là một danh lam nổi tiếng xứ Kinh Bắc vv...




Bia chùa Báo Ân
Trong khuôn viên chùa còn có một số tháp mộ. Tháp xây bằng gạch nung già cao gần 10 m với ba tầng thu nhỏ vút lên. Kích thước gạch 24 cm x 14 cm, dày 7 cm.Hai tháp mộ đá kích thước nhỏ, tạo từ đá nguyên khối, lòng tháp có ghi: Nam Thiên Quốc lập tàng phù môn, trụ trì Bắc Lập, pháp hiệu Chân Ngôn, tự Thắng Minh. Cùng với những dấu vết, di vật hiện biết, quá trình canh tác, đào đắp xây dựng trên vùng đất chùa cũ cùng tìm được nhiều hiện vật kiến trúc, đồ gốm sứ liên quan đến ngôi chùa đã từng được dựng xây trong lịch sử.
I.Chùa Báo Ân - một ngôi chùa cổ:
1.1. Theo truyền thuyết, chùa được xây dựng từ thời Lý gắn liền với sự tích người con gái hương Thổ Lỗi nên duyên cùng vua Lý Thánh Tông, sau này trở thành Linh Nhân Hoàng Thái Hậu. Sau sự biến bức tử Dương Thái Hậu cùng 72 cung nữ (1073), Hoàng Thái Hậu hối lại “dựng chùa thờ Phật, trước sau hơn trăm sở… để sám hối và sửa oan”, trong đó có chùa Báo Ân trên quê hương . Hương Thổ Lỗi năm 1068 đổi thành hương Siêu Loại, do đó chùa còn có tên gọi là chùa Siêu Loại.Chùa buổi đầu được xây dựng quy mô nhỏ hẹp, sau này được mở mang xây dựng dần.
Theo các cụ địa phương kể lại cho biết, chùa được xây dựng quy mô to lớn nhất vào thời Trần; chùa có tới 36 nóc nhà, thềm trùng tiếp mái với 99 gian  với hai lớp tam quan nội và ngoại. Chùa xây dựng khang trang, trang trí đẹp lộng lẫy. Chùa là nơi thờ phật kiêm hành cung của nhà vua, nên còn có tên gọi là chùa Cả. Theo truyền thuyết cho biết, vào thời Trần,công chúa nhà Trần đi chơi thuyền trên dòng sông Thiên Đức, đến đoạn sông trước chùa bị  gió nổi sóng to lật thuyền chết đuối. Vua Trần tức giận đổi tên sông là sông Bất Nghĩa, trên đoạn sông công chúa mất vua cho xây dựng lại một ngôi chùa. Đó chính là chùa Báo Ân. trên cơ sở một ngôi chùa cũ.
1.2. Chùa Báo Ân ghi chép trong lịch sử.
Theo tài liệu lịch sử, qua các công trình nghiên cứu về Phật giáo cho biết, buổi sơ khởi  chùa Báo Ân có tên gọi là chùa Siêu Loại có mặt từ thời Lý mang tên theo đơn vị hành chính : Hương Siêu Loại;  do Thiền sư Trí Thông trụ trì.Cuối thời Lý sang thời Trần chùa đã khá nổi danh trong làng Thiền học; vua Trần Nhân Tông đã từng đến thăm và đàm đạo tại chùa. Tháng 8 năm 1299, vua Trần Nhân Tông chính thức xuất gia tại chùa Hoa Yên, núi Yên Tử lấy pháp hiệu là Hương Vân Đầu Đà, sau đổi là Trúc Lâm Đầu Đà và xây dựng một giáo hội mới mà sau này các nhà nghiên cứu gọi là Thiền phái Trúc Lâm. Chùa Siêu Loại đã được Thiền sư Trí Thông hiến cho Thiền phái Trúc Lâm và được mở mang xây dựng quy mô lớn, trở thành một cơ sở chớnh của Thiền phái này trong các mùa kiết hạ hằng năm.Năm 1306, nhà sư Pháp Loa được lập làm giảng chủ chùa Báo Ân (Siêu Loại). Ngày mồng một tết năm 1308, Trúc Lâm chính thức uỷ Pháp Loa trụ trì chùa Siêu Loại dưới sự chứng kiến của hoàng gia triều Trần đứng đầu là vua Trần Anh Tông “… Điều Ngự đem sơn môn Yên Tử và chùa Siêu Loại uỷ cho Pháp Loa kế thế trụ trì, làm vị tổ sư thứ hai phái Trúc Lâm (Tam tổ thực lục)”. Năm đó, nhà nước cúng cho chùa 100 mẫu ruộng và cấp người cày cấy để lấy hoa lợi cho chùa. Pháp Loa là người đầu tiên được vua Trần Anh Tông cấp độ điệp sau khi nhận chức trụ trì chùa Báo Ân ở Siêu Loại khi tổ đệ nhất Trúc Lâm còn sống.Thời kì Pháp Loa đứng đầu giáo hội, Thiền phái Trúc Lâm có sự phát triển mạnh mẽ. Trong 19 năm, Pháp Loa dựng hơn 800 ngôi chùa lớn (Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh), đặc biệt chùa Báo Ân nơi ông trụ trì được xây dựng mở rộng thành trung tâm Phật giáo lớn. Được sự ủng hộ của hoàng gia cùng tăng ni phật tử về vật chất: năm 1312, vua Trần cúng dường 5 vạn quan tiền, cúng 500 mẫu ruộng của Niệm từ Trang vào chùa làm bất động sản… Năm 1313, theo di chiếu của Trần Nhân Tông, vua Anh Tông lấy đồ vật thờ tự tam bảo của mẹ mà cúng vào chùa Báo Ân, lại cúng dường vật liệu xây dựng và cung cấp thợ phu để làm thêm chùa tháp. Cùng năm đó Bảo từ Hoàng Thái Hậu cúng vào chùa 300 mẫu gia điền. Năm 1315, Anh Tông lấy 30 mẫu ruộng của người cung nhân cũ họ Phạm cúng vào chùa, v.v… Những sự ủng hộ đó đã dần tạo điều kiện cho Pháp Loa dương danh phát triển Thiền phái Trúc Lâm trên vùng đất truyền thống của nhiều thiền phái đạo Phật khác. Năm 1314, tại chùa Báo Ân, Pháp Loa đã xây tới 33 cơ sở trong đó có Phật điện tàng kinh và Tăng đường, mời hai vị sư huynh là Tông Cảnh, Bảo Phác về chùa Siêu Loại mở những lớp về Tứ phần luật cho tăng sĩ và in 5.000 bản Tứ phần luật phát cho các tăng sinh.
Chùa Báo Ân đã trở thành cơ sở đào tạo tăng sĩ, phật tử lớn góp phần khẳng định vai trò quan trọng của Thiền phái Trúc Lâm trong đời sống xã hội Việt Nam đương thời. Khoá khai giảng năm 1322 ở chùa Báo Ân có trên 1.000 người đi nghe. Những buổi ít người đi nghe nhất cũng  khoảng 500-600 người. Bản thân Pháp Loa là người trực tiếp giảng những kinh, luật cho các đệ tử tại chùa mình trụ trì. Đây đã trở thành nơi xuất gia của nhiều người trong hoàng tộc. “Hoàng Thái hậu đã quy y tại chùa… Năm 1323, Văn Huệ Vương và Uy Huệ Vương đến chùa Báo Ân xin thụ Bồ Đề tam giới và Phát Quán đỉnh”. Chùa Báo Ân còn là cơ sở in ấn kinh sách lớn nhất thời bấy giờ. Nhờ có bản gỗ tàng trữ tại chùa Báo Ân nên kinh sách được ấn hành rộng rãi, cung cấp đầy đủ cho nhu yếu học Phật trong khắp xứ.  Qua ghi chộp có thể thấy, thời kì Pháp Loa trụ trì là thời kì phát triển thịnh đạt nhất của chùa Báo Ân. Sau khi Pháp Loa mất, cùng chung với sự trống vắng của phái Trúc Lâm, sự quan tâm của hoàng tộc cùng Thiền phái Trúc Lâm, ngôi chùa dần xuống cấp. Chùa Báo Ân cũng mất dần vai trò của nó theo năm tháng.
Vào thế kỷ XVII, cùng với sự phục hưng của Đạo Phật, được sự quan tâm của các Hoàng tộc thời Lê – Trịnh, hệ thống chùa chiền được quan tâm trùng tu tôn tạo, trong đó có các chùa của thiền Phái Trúc Lâm và chùa Báo Ân cũng nằm trong số đó. Ngoài các chùa Quỳnh Lâm; Hoa Yên ( Quảng Ninh); Vĩnh Nghiêm ( Bắc Giang); Côn Sơn ( Hải Dương), những trung tâm chính của thiền phái Trúc Lâm thưở trước, chùa Báo Ân được  các quận chúa họ Trịnh, cung tần Đào thị ngọc Hữu; Khuê quận Công Trịnh Lựu, quận chúa Ngọc Xuân, Ngọc Niệm ; Thái thị Ngọc Phi cùng nhiều người trong Hoàng gia, Phủ chúa bỏ ruộng tiền cung tiến sửa chữa xây dựng chùa thêm to đẹp. Ngôi chùa được các phật tử gìn giữ, tu sửa, bảo quản đến nửa đầu thế kỷ XX (1947) vẫn được coi là một  Đại danh lam Phật giáo, trung tâm văn hóa tín ngưỡng lớn tren vùng đất cửa ngõ phía Đông kinh thành Thăng Long xưa.
 Như vậy  trong quá trình tồn tại và phát triển, chùa Báo Ân có hai giai đoạn hưng thịnh, hai giai đoạn phát triển của ngôi chùa này đều gắn bó mật thiết với hai vương triều thịnh trị trong lịch sử : nhà Trần và nhà Lê ( Trung Hưng); gắn bó với hai Hoàng tộc và là trung tâm tôn giáo chính của thiền phái Trúc Lâm khi hưng thịnh cũng như khi phục hưng cận kề Thăng Long vùng cửa ngõ phía Đông. Thân phận của ngôi chùa gắn bó mật thiết với số phận của hai triều đại và có thể coi chùa Báo Ân là ngôi chùa của Hoàng tộc trong lịch sử.
1.3 Chùa Báo Ân qua tư liệu khai quật khảo cổ học.
 Đẻ tìm về dấu vết chùa Báo Ân được xây dựng trong lịch sử, trong các năm 2002- 2003 -2004 Bảo tàng lịch sử Việt Nam tiến hành khai quật gần 500m 2.Địa tâng hố khai quật cho thấy từ độ sâu 0,2m – 2,4m là tầng văn hóa ẩn chứa dấu vết kiến trúc và các vật liệu, hiện vật của các thời đại khác nhau từ Trần đén thời Nguyễn. Đáng chú ý từ độ sâu 1,4m – 2,4 m là địa tầng thuần nhất chứa di tích và di vật thời Trần. Dấu tích kiến trúc để lại cho thấy:
+ Những dấu tích kiến trúc xây dựng thời Trần ( 1226 -1400)
 Qua các lần khai quật, những dấu tích kiến trúc tìm được tại độ sâu 1,2m – 1,6m  đều được xây dựng dưới thời Trần với nhiều thành phần kiến trúc tìm được  khác nhau.
- Dải móng bó nền dài 3,5m cao 0,6m tại phía đông gò chùa. Bó nền được xếp bằng gạch khối hộp  chữ nhật màu đỏ. Kích thước các viên gạch dài 32 x 14 x 3,5cm và 19,3 x 19,4 x 3,5cm. Kỹ thuật xây xếp so le nhau liên kết vững chắc. Lớp dưới cùng gạch được xếp nghiêng vững chắc.
- Nền  kiến trúc lát gạch tìm được trong hố khai quật khoảng 7m 2. Lớp nền này còn tiếp tục lan rộng ra diện tích bên ngoài. Nền lát gạch vuông phẳng; kích thước 34x 31 x 5cm. Gạch được nung già, cứng màu đỏ tươi chịu lực và mài mòn của khí hậu.
- Nền sân chùa nằm ở độ sâu 0,9m được lát gạch hình vuông khá phẳng; giới hạn nền sân bằng lớp gạch chữ nhật xếp nghiêng khóa giới hạn sân dài 1,45m. Gạch lát sân hình vuông, được nung già, màu đỏ, cứng. Kích thước  cạnh 0,35- 0,37cm x 0,35- 37cm; dày 4,5cm.
- Bó hiên kiến trúc nằm ở độ sâu 1,22m, xuất lộ trong hố khai quật dài 4,5m. rộng 1,2m chia làm 2 cấp chênh nhau 0,2m, mặt cấp rộng 0,6m
- Dải nền kiến trúc gia cố gạch và ngói xuất lộ diện tích 30m2. Nền được xử lý bằng gạch, ngói đá vỡ được đầm lèn chặt dày 0,3 – 0,4m. Lớp nền này đầm chắc, vững gia cố của nền hoặc sân kiến trúc cho vững chắc.
- Trụ móng kiến trúc tìm được 6 trụ móng, gồm hai hàng song song nhau, mỗi hàng 3 trụ. Các trụ móng được gia cố hình gần vuông, cạnh 0,6m x0,8m, được sử dụng 2-3 lớp gạch ngói vụn đầm lèn chặt vững chắc. Đây là trụ chịu lực của công trình kiến trúc. Khoảng các các móng trụ cho thấy cột cái cách cột quân là 1,5m; hai cột cái cách nhau 2,9m. Như vậy có thể thấy bước gian của kiến trúc xây dựng trước kia chiều ngang là 2,9m.
- Đường ống cấp thoát nước nằm ở độ sâu 1,6m, chạy theo chiều bắc – nam song song với phần móng phía đông. Hiện trạng tìm được đường cống dài 5,6m với 22 khoang ống cống hình trụ tròn nối nhau, đường kính 19 -21cm.
- Dấu vết các ô bồn hoa được dùng mảnh ngói hoặc gạch xếp dựng đứng ghép khít với nhau thành ô hình vuông và chữ nhật tạo thành các ô bồn với kích thước 3m x 3m hoặc 2m x 2m.
- Mảng gia cố kiến trúc dạng nêm cối, đó là những mảng gia cố có dạng hình tròn đường kính 4m, các viên gạch ngói được đóng chèn chặt như nêm cối tạo nên những mảng nền vững chắc.
Những dấu vết kiến trúc thời Trần tìm được  qua khai quật ở đây, cho thấy có những kiến trúc có mặt bằng quy mô lớn, xây dựng to đẹp. móng chịu lực cao và hướng kiến trúc quay mặt nhìn về phía Tây, nơi dòng sdoong Thiên Đức chảy trước mặt chùa.
+ Những dấu tích kiến trúc thời Lê.
Dấu vết kiến trúc thời Lê nằm ở độ sâu trung bình 1,0m gồm:
- Dấu vết móng kiến trúc gồm hàng gạch xếp đứng, khóa hàng gạch lát phía trong, giữa có khe rãnh rộng 5- 7cm. Gạch sử dụng có kích thước dài 30cm x 12cm x 5,5cm.
- Trụ móng  cột gồm 4 trụ chia thành 2 hàng chạy song song, khoảng cách trụ cách nhau 2,9m. Trụ móng được sử dụng gạch, ngói vỡ thời Trần đập nhỏ đầm lèn chặt là trụ chịu lực cột của kiến trúc. Giữa các trụ móng cột được liên kết với nhau bằng đường gạch bó vỉa xếp nghiêng liên kết với nhau.
-  Hệ thống ống dẫn thoát nước nằm tại độ sâu 0,6m -0,8m dài 6 -8m được tạo bởi hai viên ngói hình trụ đường kính 0,3m dài 15cm xếp khít vào nhau, hàng trên và dưới so le, nói tiếp nhau tạo nên hệ thống cống.
Hiện vật.
Hiện vật thu được qua các cuộc khai quật khá phong phú gồm nhiều loại hình, chất liệu khác nhau của nhiều thời đại. Có thể chia thành các nhóm chính:
Nhóm hiện vật có niên đại thời Trần:
- Vật liệu xây dựng gồm gạch xây dựng, gạch lát nền.
Gạch khối chữ nhật,. cạnh vuông vức, được nung già, độ cứng cao. Kích thước dài 34- 36cm; rộng 16 -18cm; dày 4cm. Một số viên có khắc chữ Vĩnh Ninh trường, hay niên đại chế tác: Hưng Long thập nhị niên ( 1304)
Gạch lát nền hình vuông, dày, được nung già, độ cứng cao, màu đỏ tươi. Mặt gạch gồm 2 loại:  để trơn và  có trang trí. Đề tài thể hiện là hoa cúc trong vòng tròn hay hình thoi hoa dây. Kích thước các viên gạch:33,5cm x 33,5cm x 4,5cm.




Gạch lát nền chùa Báo Ân
Ngói gồm nhiều loại: gồm ngói mũi đơn và kép. Đặc biệt ở đây tìm được ngói mũi hài tráng men màu xanh lục, men màu trắng đục với lớp men dày bóng, phủ đều rất đẹp.
Ngói úp nóc có  kích thước lớn, nung già cứng, trên ngói có các ký tự định vị khi sử dụng như Bắc nhất, bắc nhị, chứng tỏ số lượng nung và được sử dụng tại công trình khá lớn.
Nhóm đất nung trang trí kiến trúc gồm nhiều loại như lá đề trang trí hình rồng





Hình rồng trên trang trí kiến trúc đất nung
Gạch ốp trang trí hình tiên nữ múa, cánh sen, hoa cúc. Các trang trí kiến trúc hoa văn hoa dây uốn lượn, hoa văn xoắn, hồi văn vv...
Đồ gốm sứ  gồm bát đĩa, chân đèn lư hương. Đặc biệt là đồ gốm sản xuất thời Trần với đặc trưng men vô cùng phong phú: men màu nâu, đen nhạt, men ngọc, men trắng hoa nâu vô cùng phong phú mang đặc trưng của một thời kỳ lịch sử
Gốm thời Trần chùa Báo Ân
Nhóm hiện vật có niên đại thời Lê:
 Nhóm hiện vật thời Lê thu được khá phong phú, gồm vật liệu xây dựng, đồ gốm sứ, đồ sành với các loại hình bát đĩa, lon, bình, vại ang. Đặc biệt là đồ gốm men trẵng vẽ lam thế kỷ XVI – XVIII chiếm đa số.




Đồ đất nung thời Lê TKXVII
Kết quả khai quật khảo cổ học đã góp tư liệu vật chất khách quan phản ánh trung thực sự ra đời và phát triển của chùa Báo Ân qua các giai đoạn lịch sử mà truyền thuyết cùng tư liệu lịch sử ghi lại trong ký ức và sử sách.
II. Chùa Báo Ân – Ngôi chùa bên dòng sông cổ.
Do biến đổi của tự nhiên, sự can thiệp của con người, cho đến nay dòng sông Thiên Đức  trước chùa  đã dừng chảy, con đường giao thông thủy quan trọng trước kia không còn bóng thuyền bè một thưở sầm uất lưu thương và tiếng chuông chùa ven sông đã tắt. Nhưng quá khứ vinh quang một thời vẫn ẩn chứa trong lòng đất và bên dòng sông tĩnh lặng vẫn ánh xạ một thời huy hoàng của ngôi chùa cổ bên dòng sông cổ.
Tài liệu thực địa khảo sát trên địa bàn cho biết, cội nguồn sông Thiên Đức xưa tách ra từ sông Hồng nơi ngã ba Dâu (xã Thượng Cát – Gia Lâm) cách kinh đô Thăng Long không xa, dòng sông uốn mình chảy xuôi theo hướng đông nam và tách ra chi lưu đầu tiên mà cửa sông mở trên địa bàn thôn Lời- thôn Lở xã Đặng Xá  chảy qua địa bàn các Phú Thuỵ, Dương Quang, xuôi xuống sông Như Quỳnh (sông Nghĩa Trụ) hoà nhập cùng sông Dâu. Đoạn sông này còn có tên là sông Bất Nghĩa. Truyền thuyết trong vùng kể rằng, vào thời nhà Trần có công chúa đi thuyền từ kinh đô Thăng Long về chùa Báo Ân đến đoạn sông này do sóng to gió cả thuyền bị lật, công chúa chết đuối, vua giận quá gọi đoạn sông này là sông Bất Nghĩa.Sông Dâu, theo tài liệu gần đây và dựa vào dấu tích còn lại cho thấy, từ sông Thiên Đức, theo dòng chảy nghiêng về đông, dòng sông lại tách  thêm nhánh ra trên địa phận xã Lệ Chi ngày nay, mà nơi cửa sông mở  trên địa bàn mang tên làng Cổ Giang. Khúc sông này chảy quanh co mà dấu vết đế lại là hệ thống khe trũng, ao hồ liên hoàn chảy qua các thôn Trà Lâm; Tư Thế ( Thuận Thành) sau  chảy qua trước mặt Tây thành Luy Lâu , gọi tên sông Dâu. Sông Dâu chảy xuôi xuống qua  địa bàn các xã Hà Mãn, Nguyệt Đức, Song Liễu  thuộc huyện Thuận Thành  hợp lưu gặp sông Nghĩa Trụ. Hai nhánh sông đã hoà nhập  vào nhau tạo nên ngã ba sông rộng lớn, dòng chảy xuôi về Lục Đầu. Xuôi ngược hệ thống sông có thể ngược  cùng sông Thiên Đức nối về Thăng Long, và ngược lại từ Thăng Long theo hệ thống sông xuôi về vùng biển Đông Bắc. Con đường thuỷ này đến đầu thế kỉ XIX vẫn nhộn nhịp thuyền bè qua lại:
Lênh đênh ba bốn thuyền kề
Chiếc ra Hà Nội, chiếc về sông Dâu
Hệ thống sông này tồn tại khá lâu trong lịch sử, giữ vị trí vai trò quan trọng trong vùng đất.Từ sông Mẹ gắn kết với kinh thành Thăng Long, qua hệ thống sông Thiên Đức với các chi lưu sông Dâu, sông Nghĩa Trụ ( Bất Nghĩa) tạo nên hệ giao thông thủy thuận lợi với các vùng đất trù phú quan trọng  như vùng trung tâm Phật giáo Luy Lâu, vùng đông bắc đất nước với trung tâm Phật giáo Yên Tử, Quỳnh Lâm; Côn Sơn. Vào thời Lý – Trần khi hệ thống đề điều trị thủy mới manh nha xuất hiện thì  hệ thống sông nước chiếm vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế và giao thông. Từ Thăng Long theo sông  Thiên Đức đến được các trung tâm Phật giáo lớn vùng đông bắc. Đây là con đường giao thông thủy thuận lợi, ngắn nhất nối vùng  đất phên dậu phía đông với kinh đô. Nằm ở vị trí ấn ngữ trên con đường giao thông thủy quan trọng này; chùa Siêu Loại được dựng xây giữ vị trí trung độ trên con đường thủy Thăng Long nối vùng đông Bắc. Chính vì thế khi thiền phái Trúc Lâm được khai sinh, chùa Siêu Loại đã được nhà Trần chú tâm dựng xây thành một trung tâm tôn giáo lớn, một cơ sở quan trọng của thiền phái Phật học hoàng gia. Có lẽ chùa được chú trọng hưng công sau năm 1299 khi Trân Nhân Tông xuất gia. Viên gạch đề ghi niên hiệu “ Hưng Long thập nhị niên( 1304) tìm được tại chùa Báo Ân đã nói lên điều đó, điều này phù hợp với tài liệu năm 1308 Tổ nhất Trúc Lâm Trần Nhân Tông  trước khi viên tịch không lâu đã ủy thác chù trì chùa Siêu Loại cho tổ thứ hai là Pháp Loa dưới sự chứng kiến của đệ tử thiền phái cùng Hoàng tộc nhà Trần. Chắc  năm này ngôi chùa được xây dựng xong hoàn thiện đã dẫn đến sự kiện trên.

III. Chùa Báo Ân trong hệ thống chùa thiền phái Trúc Lâm.

Dựa vào tài liệu thực địa hiện còn, kết hợp với tư liệu lịch sử có thể khẳng định rằng chùa Báo Ân có vị trí quan trọng trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, đặc biệt trong thời Thiền phái Trúc Lâm, một đại danh lam kiêm hành cung của hoàng tộc nhà Trần trên vùng đất Siêu Loại. Nằm trên con đường huyết mạch nối giữa Thăng Long và vùng núi Yên Tử xứ Đông Bắc, trung tâm tổ của Thiền phái Trúc Lâm, sử cũ có ghi lại tháng 10 năm 1308 khi chị là Thụy Thiên công chúa bệnh nặng, Trúc Lâm chống gậy xuống núi về Thăng Long thăm chị “Thăm chị xong, ngày rằm lên đường về núi. Trên đường ghé nghỉ đêm tại chùa Siêu Loại. Sáng mai lại lên đường đi qua ngang chùa làng Cổ Châu (chùa Pháp Vân) ghé lại chơi,

Với vị trí thuận lợi, chùa Báo Ân giữ vai trò trung tâm trung chuyển giữa hai trung tâm lớn, hỗ trợ nhịp nhàng trong vai trò điều khiển đất nước, Giáo hội Phật giáo theo tinh thần nhập thế mà vị Đại tổ Thiền phái Trúc Lâm Trần Nhân Tông hằng mong muốn. Điều kiện đó đã tạo nên thế và lực để chùa Báo Ân dựng xây phát triển, đáp ứng được yêu cầu của môn phái. Nằm trên vùng đất có bề dày truyền thống của đạo Phật với nhiều trung tâm lớn của nhiều thiền phái khác nhau: Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi với trung tâm chùa Pháp Vân nổi tiếng, Thiền phái Vô Ngôn Thông với trung tâm chùa Kiến Sơ đều nằm cách không xa chùa Báo Ân (gần 10 km theo đường chim bay), việc Thiền sư Trí Thông trụ trì chùa Siêu Loại hiến chùa cho Thiền phái Trúc Lâm – một tông phái đề cao tinh thần dân tộc - để biến nơi đây thành trung tâm Phật giáo lớn đã khẳng định sự nhập thế của đạo Phật hoà đồng với tinh thần độc lập dân tộc là nét nổi trội trong lịch sử Phật giáo, văn hoá đời Trần. Chùa Báo Ân trở thành   cứ địa tiền tiêu  của thiền phái Trúc Lâm bên cạnh kinh đô. Thăng Long – Báo Ân( Siêu Loại  ) – Côn Sơn – Quỳnh Lâm – Yên Tử là trục không gian tín ngưỡng được nối bằng hệ thống giao thông thủy đã tạo nên một vùng tín ngưỡng văn hóa Phật giáo chi phối  mọi hoạt động văn hóa tín ngưỡng dân tộc trong một thời kỳ dài trong lịch sử. Đó chính là giá trị văn hóa, lịch sử mà chùa Báo Ân đã đóng góp vào văn hóa dân tộc. Với vị thế quan trọng, được duy trì qua năm tháng lịch sử, mặc dù có những biến động  nhưng chùa Báo Ân luôn luôn nhận được sự quan tâm  của Hoàng gia, quan lại sau này và được gìn giữ đến ngày nay

Di tích chùa Báo Ân là một minh chứng cho những  thời kì lịch sử sống động huy hoàng đó./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét