Về loại hình “giếng Chăm” tại địa bàn Đà
Nẵng
Trong tổng thể các di tích văn hóa Champa trên
dải đất miền Trung, giếng là một loại hình di tích đặc biệt, có mặt ở khắp nơi,
trên mọi vùng đất với chức năng khai thác nguồn nước phục vụ cho cuộc sống của
con người. Cũng như các tộc người khác, nguồn nước tự nhiên được con người khai
thác, sử dụng dựa trên hai nguồn nước chính: khai thác nước mặt trên các sông suối, đầm ao
hồ, những nơi lưu giữ nước thiên nhiên và khai thác nước ngầm trong lòng đất
với kỹ thuật đào sâu xuống lòng đất tìm nước ngầm phục vụ cuộc sống. Sinh sống
chủ yếu trên địa bàn dải đất miền Trung với khi hậu hai mùa mưa nắng, mùa mưa
vấn đề khai thác nước trở nên đơn giản, nhưng mùa khô lượng mưa ít, hệ sống
sông suối ngắn và dốc nên hệ thống lưu giữ nước mặt không đáp ứng được nhu cầu
sinh hoạt nên việc khai thác nước ngầm trở nên bức thiết,và người Chăm đã sớm
biết khai thác nguồn nước ngầm phục vụ cho đời sống. Trong quá trình khai thác nước
ngầm người Chăm đã xây dựng một hệ thống giếng trên dọc dải đất miền Trung
trong đó các địa bàn Đà Nẵng.
PHẦN I. HỆ THỐNG GIẾNG CHĂM Ở ĐÀ NẴNG
Theo khảo sát bước đầu, trên địa bàn
Đà Nẵng ngày ngay còn lưu giữ hàng loạt các giếng Chăm hay các giếng có nguồn
gốc Chăm được sử dụng cho đến ngày nay. Những giếng này tập trung chủ yếu phía
nam Đèo Hải Vân( địa phận Phường Nam Ô hiện nay). Theo thống kê của địa phương
nơi đây còn khoảng trên 20 chiếc giếng cổ. Hiện tại, do cuộc sống thay đổi nhiều
giếng không sử dụng, nhưng vẫn còn nhiều giếng vẫn được sử dụng cho đến ngày
nay. Ngoài ra còn rải rác trên địa bàn còn một số giếng Chăm khác. Dưới đây là
một số giếng Chăm tiêu biểu.
1.Giếng Lăng (thôn Năm Ô, phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu), ở khoảng vị trí tọa độ 16006'54,8"
vĩ độ Bắc và 108007'50,0" kinh độ Đông.
Lòng giếng hình vuông, được xây dựng
bằng các phiến đá xếp chồng lên nhau. Miệng giếng phía trên mới được xây dựng
lại bằng gạch và xi - măng cát, đè lên thành giếng cổ.Lòng giếng cổ, 4 góc có 4
cột đá hình vuông ốp, đầu các cột đá được khấc tạo cổ, đầu trên cùng hình chóp
nhọn. 4 thanh đá nối với nhau bằng 4 thanh ngang khóa miệng giếng phía trên
cùng, ở các thanh này đều có dấu tích của vết mòn do kéo thừng, và vết cong
võng do vết gầu trong quá trình sử dụng giếng. Kích thước lòng giếng 87cm x
87cm. Từ bề mặt giếng cổ đến đáy sâu 4,45m, đến đỉnh các cột ở góc là 4,98m.
Được xây dựng bằng 11 tấm đá có kích thước dày trung bình 41cm xếp chồng lên
nhau.Lòng giếng bên trong trên cùng hiện nay có kích thước 87cm x 87cm, bên
ngoài là 1,26m x 1,26m, cao hơn thềm giếng xung quanh là 77cm.
2.
Giếng Đình (thôn Năm Ô, phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu) có cùng kiểu
cách và kỹ thuật xây dựng với giếng Lăng.Hiện nay giếng nằm trong khu dân cư.
Lòng giếng phía trên mới được xây dựng lại có kích thước 1,01m x 1,01m, cao
86cm tính từ mặt nền xung quanh.Phần giếng cổ bị thời sau xây đè lên. Bốn góc
thành giếng có 4 cột đá ốp, trên đỉnh cột được đục tạo cổ của cột, đỉnh trên
cùng có dạng hình chóp nhọn, kích thước của 4 trụ này dài 1,45m. Phía trên cùng
thành giếng, các cột góc khóa chặt với nhau bằng các thành ngang.Lòng giếng cổ
có kích thước 89cm x 89cm. Toàn bộ thành giếng được xếp đá tảng chồng lên nhau,
từ trên xuống hiện còn quan sát được 10 lượt đá, mỗi tảng đá dày trung bình
0,5m.Độ sâu của giếng hiện nay khoảng 5,17m, tính từ đáy đến thành giếng cổ, và
5,31m tính từ đáy đến thành giếng mới xây dựng sau này.
3. Giếng Thành Cung (thôn Nam Ô, phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu), ở khoảng vị trí tọa độ 16006'50,34"
vĩ độ Bắc và 108007'43,22" kinh độ Đông.Phần miệng giếng được
xây dựng lại cao lên vào thời sau, kích thước bên trong rộng 0,96m x 0,96m,
kích thước bên ngoài rộng 1,19m x 1,19m.Phần giếng cổ ở phía dưới có kích thước
lòng rộng 1,00m x 1,00m, độ sâu hiện tại tính từ mặt nước lên đến phần miệng
giếng cổ là 4,45m.Toàn bộ thành giếng hiện còn quan sát được 8 lượt đá xếp
chồng lên nhau, tuy nhiên khác với các giếng trên, ở đây các tảng đá được xếp
xen kẽ cứ một tảng đá mỏng (35cm) lại đến 1 tảng đá dày 74cm.Thành giếng hiện
tại cao hơn bề mặt thềm giếng xung quanh khoảng 57cm.Về niên đại, theo các chữ
Hán còn để lại ở thành bên ngoài, giếng được xây dựng năm Gia Long thứ 13 (năm
1814, Gia Long làm vua từ năm 1802 đến năm 1821). Chính vì niên hiệu này mà
hiện nay nhiều người cho rằng các giếng ở Năm Ô không phải là giếng Chăm, tuy
nhiên theo chúng tôi, đây có thể không phải là giếng Chăm nhưng được xây dựng
theo kỹ thuật của người Chăm.
4. Giếng cổ Quán Hóa Ổ (thôn Nam Ô, phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu), ở khoảng vị trí tọa độ 16006'46,63"
vĩ độ Bắc và 108007'38,3" kinh độ Đông.Về hình dáng, kỹ thuật
xây dựng và kết cấu hoàn toàn giống các giếng đã tìm được ở Năm Ô. Phía trên,
thành giếng mới được xây dựng cao thêm 1,14m, kích thước bên trong 0,96m x
0,96m, kích thước bên ngoài 1,15m. Nhìn chung, giếng cổ đã bị phá hủy mạnh ở
phần trên, các cột ở 4 góc không còn nhận diện được, toàn bộ lòng giếng đã bị
lấp gần lên đến bề mặt. Hiện chỉ còn quan sát được 2 lượt đá tảng xếp chồng lên
nhau tạo thành giếng, các tảng đá có kích thước dày trung bình 41cm. Lòng giếng
cổ hình vuông, kích thước rộng 96cm x 96cm.
5. Giếng cổ Nghĩa Trũng (thuộc phường
Khuê Trung, quận Cẩm Lệ), ở khoảng vị trí tọa độ 16001'25,86"
vĩ độ Bắc và 108012'50,36" kinh độ Đông.Kết cấu, kiểu dáng và
kỹ thuật xây dựng giếng tương tự như các giếng ở Năm Ô. Giếng nằm trong tổng
thể chung của các công trình gồm miếu Nghĩa Trũng, nghĩa trang liệt sĩ của
phường. Hiện nay, giếng vẫn được dùng để khai thác nước phục vụ cho sinh hoạt
hàng ngày. Bề mặt giếng được đậy bằng một tấm pano, thành giếng đặt máy bơm lấy
nước từ dưới giếng lên. Thành giếng hoàn toàn chưa được cải tạo hay xây mới về
sau này.Ở góc giếng còn có 4 cột đá cao trung bình 78cm, phía trên có cổ, đỉnh
cột hình chóp nhọn. Bề mặt các cột được khóa với nhau bằng các thanh đá nằm bên
trên của thành giếng. Lòng giếng hình vuông, kích thước 1,15m x 1,15m.Thành
giếng cao hơn bề mặt xung quanh hiện nay khoảng 58,5cm. Độ sâu từ đáy lên đến
thành giếng khoảng 5,5m, mực nước trong giếng hiện còn cao 2m.Thành giếng được
xây dựng bằng các tảng đá xếp chồng lên nhau, hiện còn quan sát được 9 tảng,
dày 39cm.Theo các cụ địa phương cho biết phần dưới giếng thành được xây xếp
bằng đá ong.
6. Ngoài ra trong quá trình khảo sát
còn cho biết có loại giếng hình tròn được xếp bằng đá tự nhiên tại di tích vườn
Đinh Khuê Bắc. Giếng có hình tròn đường kính miệng giếng 1,25m. Hiện nay đã sụp
đổ không sử dụng. Theo người địa phương cho biết đây là giếng được đào phục vụ
cho công trình Đình Vường Khuê Bắc sau này.
Từ kết quả điều tra khảo sát cho
thấy, di tích loại hình giếng trên địa
bàn Đà Nẵng có hai loại giếng khác nhau: giếng có mặt bằng hình vuông và giếng
có mặt bằng hình tròn. Giếng mặt bằng hình tròn có nguồn gốc do người Việt tạo
ra theo truyền thống văn hóa Việt. Giếng có mặt bằng hình vuông chủ nhân là
người Chăm tạo ra theo truyền thống văn hóa Champa. Những giếng ở Đà Nẵng hiện
nay về hình dáng cơ bản có mặt bằng hình vuông, được người Việt tôn tạo sử dụng
sau này do vậy vấn đề chủ nhân còn những ý kiến khác nhau. Căn cứ vào kỹ thuật
ghép đá, niên đại đề ghi trên thành giếng có ý kiến cho rằng đó là những giếng
do người Việt khi tiếp thu vùng đất đã xây dựng phục vụ cho cuộc sống của mình.
Nhìn chung hệ thống giếng cổ hiện
biết, cho đến nay nhiều giếng vẫn sử dụng có tính chất chung là lòng giếng hình
vuông, được kè đá, nhiều giếng có đề ghi năm tháng, nhưng qua nghiên cứu chúng
tôi cho rằng đây là những giếng nước được xây dựng theo truyền thống kỹ thuật
khai thác nước ngầm của người Chăm. Cấu trúc giếng theo cấu trúc giếng Chăm,
chính vì thế những giếng này có thể có
nguồn gốc giếng cổ Champa được người Việt sử dụng lại hoặc người Việt xây dựng
theo truyền thống kỹ thuật Chăm khi vào định cư sinh sống ở đây.
PHẦN II. Giếng Chăm ở Đà Nẵng trong tổng thể hệ thống giếng Champa
Nước là nguồn gốc sự sống của con
người, chính vì thế để phục vụ cuộc sống, con người đã chú trọng đến việc khai
thác các nguồn nước tự nhiên phục vụ hữu
ích cho bản thân. Có thể thấy con người khai thác nguồn nước tự nhiên có hai
phương thức: khai thác nguồn nước mặt( sông suối, ao, hồ, đầm vv...) và khai
thác mạch nước ngầm( đào xuống tìm mạch nước trong lòng đất). Tùy theo điều
kiện tự nhiên, địa hình, mà cách khai thác khác nhau, tạo nên truyền thống của
mỗi tộc người. Với người Việt truyền thống khai thác nước ban đầu chủ yếu là
nguồn nước mặt( sông suối, đào ao, hồ trữ nước) thì việc khai thác nguồn nước
ngầm khá muộn. Chiếc giếng có niên đại sớm của người Việt được khảo cổ học biết đến là
giếng nước tại di tích Tức Mặc( Nam Hà) thời Trần( TK 14)(1). Đó là giếng có
miệng hình tròn, được xây gạch. Sau này những giếng của người Việt được tạo tác cơ bản đều có hình tròn. Giếng
hình tròn đào sâu xuống lòng đất có ưu điểm
hạn chế tối đa lực đẩy vào thành giếng khi khai thác nguồn nước, tạo nên
sự bền vững. Loại hình giếng này thường được sử dụng ở những vùng đất có nền
đất yếu, đất cát, phù hợp với cấu tạo địa chất vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ. Việc
khai thác nước phục vụ cuộc sống của người Chăm trong lịch sử cũng có hai loại
hình: khai thác nước mặt và nước ngầm. Do điều kiện địa hình dải đất cư trú dốc
và ngắn, việc khai thác nước mặt rất ít. Hiện nay qua khảo sát chỉ thấy dấu
vết về những công trình xếp đá khai thác
nước tại Quảng Trị.Trên
địa bàn huyện Gio An -Quảng Trị có một hệ thống xếp đá dẫn nước tự chảy
khá độc đáo được các nhà nghiên cứu quan tâm. Hệ thống dẫn nước xếp đá hiện còn
đến 30 địa điểm trên địa bàn các thôn : An Nha, An Hướng, Hảo Sơn, Long Sơn,
Thanh Khê, Tân Văn. Hệ thống dẫn nước xếp đá này hiện nay mang tên gọi thuần Việt
như giếng ông, giếng bà, giếng máng vv…Hệ thống giếng này về chức năng là dẫn
các nguồn nước tự chảy từ lòng đất đồi chảy ra. Hệ thống dẫn được xây dựng bằng
cách xếp đá cuội tự nhiên theo chủ ý tạo thành. Để sử dụng được nguồn nước một
các có hiệu quả, hệ thống dẫn nước này có 3 loại. Loại phức tạp nhất là khi nhận
nguồn nước tự nhiên để sử dụng người ta
xếp nhiều hệ thống bể lắng trên nhiều cấp cao thấp khác nhau. Từ bể lắng có bộ
phận bể tràn, bể chứa và sau cùng là hệ thống dẫn để sử dụng. Loại thứ hai là từ
nguồn nước tự nhiên nhận được người ta tạo bể chứa và máng dẫn nước sử dụng và
loại giếng đào như giếng bọng lấy nước rồi dẫn ra hệ thống máng tự chảy phục vụ
cuộc sống sản xuất. Trư\ớc hết phải nói đây là một kỹ thuật khai thác mạch nước
ngầm khá hiệu quả phục vụ cho cuộc sống và sản xuất. Hệ thống giếng này được sử
dụng cho cuộc sống ( nước ăn, tắm giặt,
sinh hoạt) phục vụ sản xuất dẫn tràn xuống các thửa ruộng phục vụ cấy trồng
vv.. Cho đến nay về loại hình di tích này vẫn được các nhà nghiên cứu quan tâm
về năm tháng xây dựng và chủ nhân của chúng. Có ý kiến cho rằng chủ nhân của những
giếng nước và hệ thống dẫn có nguồn gốc Champa, bởi đây là vùng đất Champa quản
lý trong lịch sử và người Chăm rất giỏi khai thác và sử dụng mạch nước ngầm. Như
vậy về niên đại, hệ thống giếng này có trước thế kỷ XIV khi người Chăm còn quản
lý vùng đất và có thể có niên đại còn sớm hơn.
Nhưng cũng có ý kiến cho rằng hệ thống
dẫn nước này được xây dựng khi người Việt vào quản lý vùng đất, cụ thể họ cho rằng
chủ nhân là những tù binh quân Mạc bị bắt
đưa đi đày vào đây xây dựng đồn điền trong vùng đất mới được coi là Ô châu ác địa.Vấn
đề này còn được tiếp tục tìm hiểu bởi bằng chứng về nên đại rất khó tìm. Đá xây
dựng xếp kè là sử dụng đá tự nhiên, tại các di tích chưa tìm được các di vật
liên quan như mảnh gốm sứ vv.. chưa đủ tư liệu thuyết phục về niên đại. Nên ở đây
qua đợt khảo sát chúng tôi chỉ ghi về một loại hình di tích hiện còn trên địa
bàn Qủang Trị. Trên những địa phương khác như Thừa Thiên – Huế; Quảng Ngãi; Quảng Nam; Bình Định
vv... hiện nay vẫn có hệ thống nước tự chảy này, nhưng vấn đề chủ nhân vẫn bỏ
ngỏ.
Khai thác nước ngầm hiện nay để lại
số lượng giếng khá nhiều, có mặt hầu khắp trên các địa bàn với những giếng có
mặt bằng lòng giếng hình vuông, thường được gọi là giếng Chăm, hay giếng Hời.Những
giếng có hình vuông thường xuất hiện trên các vùng đất có nền đất cứng, đạc
biệt là trên dải đất miền trung. Đặc điểm của giếng là miệng giếng hình vuông,
lực đẩy vào thành giếng nhiều nên chỉ sử dụng trên vùng đất cứng. Loại hình
giếng này có mặt từ vùng đất Hà Tĩnh trở vào đến Bình Thuận. Về chủ nhân loại
hình giếng này thường được coi là sự sáng tạo của người Chăm trong lịch sử.Theo
tài liệu khảo sát, hiện nay trên địa bàn miền Trung còn một số giếng Chăm khá thuần
nhất do người Chăm xây dựng:
- Năm 2004 tại phường 7 thành Phố Tuy
Hòa( Phú Yên) khi đào đất làm vườn người dân địa phương phát hiện một giếng cổ
bị vùi lấp trong lòng đất. Giếng nằm dưới lớp đất dày 0,8m. Giếng có miệng hình
vuông, kích thước 1,2m x 1,2m được xây bằng gạch. Gạch có kích thước trung
bình 0,3mx 0,19m x 0,07m màu đỏ tươi. Kỹ
thuật xây là những viên gạch được mài chập khít liền mạch không có chất kết
dính như kỹ thuật xây dựng tháp Champa hiện còn.Phía dưới lòng giếng được kè gỗ
dày tạo thành lòng giếng thẳng đứng vuông vức. Nước giếng khá sâu 1,1m, chất
lượng nước tốt trong vắt. So sánh chất liệu, kỹ thuật xây với các kiến trúc
Champa hiện còn cho thấy đây là chiếc giếng Champa thuần nhất được phát hiện.
- Tại địa điểm tháp Khương Mỹ( Quảng Nam )
về phía Tây bắc cách tháp không xa hiện còn một chiếc giếng Champa. Mặc dù phần
trên chủ nhà đã tu tạo lại nhưng phần dưới cho thấy thành giếng xây bằng gạch
với kỹ thuật mài chập liền khít không có chất kết dính.Phía dưới là vách thành
gỗ ghép vuông vức, thành thẳng đứng. Nước giếng trong và sâu. Đây được coi là
chiếc giếng Champa thuần nhất có từ xa xưa trong lịch sử, được xây dựng phục vụ
cho nghi lễ tại tháp Khương Mỹ. Niên đại giếng có vào thế kỷ IX.Từ 2 chiếc
giếng Champa được coi là thuần nhất có thể thấy những đặc trưng của giếng
Champa như sau:
- Miệng giếng có hình vuông
- Vật liệu xây giếng là gạch, kỹ
thuật xây mài chập liền khít như kỹ thuật xây tháp.
- Đáy giếng thành gỗ, có khả năng lát
đáy giếng là chất liệu gỗ ghép.
- Nước giếng khá dồi dào, sâu, trong
đáp ứng cho nhu cầu sử dụng sinh hoạt.
- Giếng được xây liên quan đến các cơ
sở tôn giáo hoặc địa điểm cư trú của người Chăm trong lịch sử.
Trong quá trình hội nhập lãnh thổ,
khi người Việt đến cộng cư cùng người Chăm trên dải đất, những giếng của người
Chăm xưa trong lịch sử có hai xu hướng:
- Được chủ nhân mới tái sử dụng lại
theo nhu cầu và mục đích mới trên vùng đất.
- Bị bỏ hoang phế dần vùi sâu vào
lòng đất.
Hai
xu hướng này xu hướng sử dụng lại khá phổ biến bởi nhu cầu sử dụng nước
là tất yếu cho cuộc sống vì những giếng của người Chăm thường có nguồn nước chất
lượng nước tốt,dồi dào . Chính vì thế hiện nay còn một hệ thống giếng hình
vuông có mặt hầu hết trên dải đất miền Trung trong đó có Đà Nẵng.
Trước hết nói về những giếng Chăm
trên dải đất miền Trung.
Tại Quảng Bình cho đến nay chúng tôi đã tiến hành khảo sát một loạt những
giếng được coi là có nguồn gốc Chăm tại một số địa điểm như: Đại Hữu (1 chiếc);
Hàm Ninh (1 chiếc); Quảng Phú (2 chiếc); Quảng Phương (3 chiếc) .Kết quả cho thấy: Giếng Chăm là một công trình phục vụ cho
sinh hoạt hằng ngày của một nhóm cộng đồng dân cư. Chúng đều có dạng hình
vuông, gỗ lót đáy xung quanh và khai thác mạch nước ngầm rất tốt, nước trong giếng
luôn ở mức rất cao, (hiện nay, khi người dân muốn cải tạo, việc hút cạn nước
trong giếng là rất khó và phải dùng đến máy bơm). Sự phân bố của giếng Chăm đồng
nghĩa với quá trình tụ cư, hình thành lên các xóm, làng.Tuy nhiên hiện nay, hầu
hết các giếng Chăm mà chúng tôi khảo sát đều đã được cải tạo làm lại toàn bộ.
Tâm thức của người dân quanh khu vực giếng về truyền thuyết liên quan đến các
giếng nước là nguồn tài liệu cung cấp, bổ
sung cho những nhận định của đoàn khảo sát.Các giếng đều có độ sâu từ 3,2m đến
trên 4m, khối vuông của gỗ từ 1,1m đến 2,2m, và các khối vuông bằng gỗ dật cấp
nhỏ dần xuống phía dưới.Đây là một nguồn tư liệu bổ sung với các nguồn tư liệu
khác: Thư tịch, thành, luỹ, tháp....giúp chúng ta có một cái nhìn chung nhất, tổng
quát hơn về đời sống tâm linh và vật chất của cư dân Chăm.
Tại Quảng Trị nhiều giếng vuông hiện
nay vẫn được sử dụng tại các huyện Hải Lăng, Vĩnh Linh,những giếng có lòng giếng
hình vuông
Tại Thừa Thiên Huế có khoảng 10 giếng
hình vuông tại Phú Vang, Phú Lộc, Hương thủy và ngay cả trong lăng Thiệu Trị
cũng có giếng vuông mà theo các nhà nghiên cứu cho rằng vốn có nguồn gốc Champa
Tại Quảng Nam còn khá nhiều giếng vuông trên
địa bàn. Ngoài những giếng hình vuông như đã biết, còn có loại hình giếng miệng
hình Tròn. Tại xã
đảo Tam Hải, Núi Thành bên cạnh vách núi
Bàn Than có hai giếng nước cổ xuất hiện từ thời Chămpa. “Hai giếng cổ của người Hời thì nước ngọt và trong cực kỳ”,
Giếng sâu khoảng 12m,
đường kính trên miệng là 2m. Giếng có mạch nước ngầm rỉ ra từ chân núi Bàn Than
nên suốt bốn mùa nước giếng luôn xanh trong, đặc biệt có vị rất ngọt. Mùa hè
nước cạn hơn những mùa khác. Chỉ cần thả dây gàu xuống là chiếc gàu tự lăn vào
vách đá theo nguồn nước. Dù tồn tại lâu đời nhưng
đến nay lịch sử hình thành và nguồn gốc, hay như cái tên của hai giếng cổ này
vẫn là một ẩn tích. Vì thế người dân nơi đây vẫn chỉ gọi là giếng nước người
Hời ở thôn Thuận An để phân biệt với các giếng khác. Cụ Trần Thị Cừ - một trong
những người già nhất làng - kể rằng giếng đã có từ hơn bốn trăm năm trước,
trước cả khi người dân xã Tam Hải về đây khai làng lập ấp, làng Thuận An còn
chưa được đặt tên. Qua thế hệ người xưa ở làng truyền miệng lại, trước đây bên
cạnh hai giếng có lưu bút tích là hai tấm bia đá cẩm thạch, có khắc chữ nhưng
không một ai trong làng có thể dịch hay hiểu ý nghĩa viết trên đó. Và qua thời
gian hai tấm bia đã bị mất, đến nay không còn bất cứ tài liệu nào về hai giếng
cổ này ngoài lời của người dân làng Thuận An: “Giếng này trước đây là của người
Hời”.Điểm qua một số địa phương cho thấy loại hình giếng vuông xuất hiện khá
đậm đặc trên tòa bộ dải đất miền Trung, đặc biệt trên các vùng đất có vị thế là
vịnh, vũng, cửa sông ven biển. Với đặc trưng là cung cấp nguồn nước trong,
ngọt, dồi dào, các giếng Champa trở thành địa điểm tới lui của người dân sinh
sống trong vùng cùng những thương nhân trên con đường bán buôn trên biển. Chính
vì thế khi ghi chép về vùng đất Champa trong lịch sử cho biết,” Nước Chiêm
Thành lập quốc tại mé biển, thương thuyền trung Quốc vượt bể đia qua các nước
phiên phục, thường tập trung tại đấy để chứa củi và nước, là bến tàu lớn nhất
tại phía Nam”
Loại hình giếng hình vuông
không những có nhiều nơi trên khắp dải đất miền Trung mà còn có mặt trên nhiều
vùng đất Bắc Bộ tại Hà Tĩnh, Hà Tây( cũ) được người dân khai thác và sử dụng
hàng trăm năm cho đến nay. Về chủ nhân chưa rõ, nhưng đây là những kỹ thuật đào
giếng khai thác nước ngầm kế thừa kỹ
thuật của người Champa. Chính vì thế có ý kiến cho rằng, những người dân trong
vùng có giếng hình vuông là hậu nhân của người Champa xưa trong lịch sử, họ có
mặt ở đây sau các cuộc di dân cưỡng bức,
ngược ra phía bắc theo các triều đại và mang theo kỹ thuật của mình khi ra sinh
sống trên vùng đất mới.
Dù sao đi chăng nữa, sự
có mặt của các loại hình giếng hình vuông trên một không gian rộng, thời gian
dài cho thấy đó là “dấu tích thật và mờ ” của người Chăm để lại trong lịch sử.
Đó là một phần, một bộ phận cấu thành nên nền văn hóa Champa độc đáo, mang đậm
bản sắc tộc người. Nghiên cứu giếng hình vuông là góp phần nghiên cứu văn hóa
Champa cùng sức sống, sự lan tỏa của nền văn hóa này trong tổng thể văn hóa
chung của dân tộc trong lịch sử./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét